TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
GIỨA HẢI QUÂN VNCH VÀ TRUNG CỘNG NGÀY 19-01-1974
(Bài viết của Tô Vũ)
Trong số những bào, sách, tài liệu gần đây được đăng
rất nhiều trên báo chí và trên web để kỷ niệm trận Hải chiến giữa lực lượng Hải
quân Việt nam Cộng Hoà và hải quân của Trung cộng, Tô Vũ xin trích bài
viết đặc biệt sau đây của ông Đào Dân, sĩ quan nội vụ trên tuần dương
hạm Lý Thường Kiệt HQ 16. Ông tường thuật tỉ mỉ từng giờ trận chiến của hai
chiến hạm VNCH là HQ 16 và hộ tống hạm Nhật Tảo HQ 10, chống hai chiến
hạm loại số 300 của hải quân Trung cộng.
Hải quân VNCH còn có 2 chiến hạm nữa dự chiến, khu
trục hạm Trần khánh Dư HQ 4 và tuần dương hạm Trần bình Trọng HQ 5 chống những
chiến hạm loại số 200 của Trung cộng. Như vậy, trong trận hải chiến ngày 19-1-74
này VNCH có 4 chiến hạm, chống với số chiến hạm nhiều hơn của địch.
Kết quả cuộc hải chiến này là phía VNCH, hộ tống
hạm Nhật Duật HQ 10 trúng đạn nên bị đắm. Hạm trưởng là hải quân Trung tá Nguỵ
văn Thà cùng đoàn sĩ quan và thuỷ thủ hy sinh và mất tích khoảng 60 người.
Phía Trung cộng, theo ông Đào Dân viết thì một chiến hạm loại 300 bị
trúng đạn nặng, nằm phơi bụng song song với chiến hạm HQ 10 của VNCH, thiệt hại
của Trung cộng cũng rất nặng nề.
Tuần dương hạm Lý thường Kiệt HQ 16 bị thương nặng phải
bỏ cuộc. Hải quân Trung Tá Hạm trưởng Lê văn Thự dã có lúc ra lệnh thủy thủ
đoàn bỏ tàu đào thoát, rồi lại hủy lệnh đó. Sau khi máy điện trên tàu được sửa
chữa, điều khiến bánh lái bằng điện được, tàu đã về được căn cứ.
***
Bây giờ xin mời quý độc giả đọc bài tường thuật rất
giá trị, rất hấp dẫn sau đây của ông Đào Dân
Tác giả Đào Dân, sĩ quan hải quân tốt nghiệp khoá 18
SQHQ, phục vụ trên tuần dương hạm Lý thường Kiệt HQ 16 với chức vụ sĩ quan nội
vụ. Những lời ông kể sau đây là những lời chứng xác thực, người đọc có cảm
tưởng như đang cùng chiến đấu với ông ở trên tàu.
Xin mời quý độc giả cùng thắp một nén hương
lòng, tưởng nhớ đến Anh Linh các chiến sĩ của Hải Quân VNCH đã anh dũng hy sinh
để bảo vệ bờ cõi của Tổ Quốc trên quần đảo Hoàng Sa (xin đọc Bài Văn tế giỗ
trận Hoàng sa 34 năm, có đăng danh sách những chiến sĩ hy sinh trên chiến
hạm HQ 10).
*****
Trên đây là bản đồ Kế hoạch điều quân với vị trí
***
Sau đây là lời của tác giả Đào Dân kể hành trình của
tàu từ lúc rời bến Tiên sa ngày 15-01-75 cho đến 17 giờ chiều ngày
19-01-75.
Sáng
15-01-1974, tàu tách bến Tiên Sa. Những tia nắng yếu ớt của một ngày cuối đông
đang cố gắng chọc thủng màn mây trắng dày để tỏa ánh sáng xuống mặt biển xanh
rì trước mặt. Gió Đông-Bắc cấp 2. Biển không động, nhưng khi bắt đầu quay mũi,
tàu cũng lắc lư dữ dội. Bên phải, ngọn hải-đăng Sơn-Chà đã tắt, các tháp nhọn
từ từ nhú lên sau dãy núi đen ngòm, trông như các đinh nhọn, chĩa mũi lên trời.
Tại đây đáng lẽ tàu chuẩn bị quay phải, xuôi Nam kết thúc một chuyến công tác
như lịch trình. Nhưng không, tàu tiếp tục Đông-tiến, trực chỉ Hoàng-Sa. Vậy là
niềm vui của thủy-thủ-đoàn chợt tắt, bỏ cái ước mơ của một chiều dạo phố Sài
Gòn bên người yêu lại cho tuần sau. Hy vọng thế bởi vì chuyến hải hành phụ trội
này dự trù kéo dài không quá 5 ngày. Và sau đó, tàu sẽ thảnh thơi nằm sửa chữa
ở cầu B, để cho đám con có thì giờ thụ-thưởng cái đầm ấm và an-vui bên gia đình
cho một cái tết hòa-bình đầu tiên.
Chúng tôi nhận được lệnh đi Hoàng-Sa khi cả tàu đang
nô-nức chuẩn bị lên đường về Saì Gòn. Hôm qua, ban ẩm Thực đã đi chợ xong, dầu
nước đã nhận đầy đủ. Vậy mà, đùng một cái, buổi tối lại nhận lệnh mới. Sáng
mai, HQ 16 phải chở ra Hoàng-Sa một phái đoàn của Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến
Thuật, nhằm khảo sát để thiết lập một phi trường cho C130 có thể đáp. Có lẽ đây
là một mục tiêu lớn và lâu dài của chính phủ. Chúng tôi không biết. Phái đoàn
gồm 6 người: 1 thiếu tá trưởng đoàn, 1 cố vấn Mỹ mặc áo dân sự, 2 trung úy cùng
2 trung sĩ thuộc ngành công binh. Đối với tôi chuyến đi nào cũng thú vị, nhất
là đây là lần đầu tiên có dịp ghé thăm Hoàng Sa, những hải đảo xa xôi cuối cùng
của Tổ Quốc, sau chuyến công tác Trường Sa cách đây 2 tháng. Vả chăng, cũng còn
đến 20 ngày nữa mới đến Tết, thì dầu mất đi 1 tuần lễ trước đó cho một dịp lãng
du cũng chẳng nhằm nhò gì. Những năm trước, khi còn phục vụ trên một Hộ Tống
Hạm (PCE), chuyến công tác nào cũng trên 2 tháng, có chuyến đến 100 ngày. Hồi
đó, những lần trở lại Sài Gòn, tàu đã què quặt, lê lết, rên rĩ dưới tấm thân
tàn ta và một thủy thủ đoàn rã rời. Bây giờ với Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt
HQ 16 bề thế, vững chãi, trọng tải lớn, tầm hoạt động dài, mới được tân trang
để nhận lãnh từ Guam về, số lượng sĩ quan và thủy thủ đoàn đông hơn, nhưng trái
lại thời gian công tác lại ngắn hơn chỉ 30 ngày. Thế cho nên tôi vững tâm lên
đường. Ra khơi, cho "biết mặt trùng dương", cho có dịp "ghé
những bến bờ, có những xóm dừa, chiều nhuộm vàng làn tóc ngây thơ".
Tàu chạy với vận tốc tối đa, hai máy tiến full, có thể
đạt tới 16 knots. Nhưng gặp gió Đông Bắc, dù không mạnh lắm, nhưng cũng có thể
làm cho tàu chậm lại, và độ dạt cũng khá lớn. Chỉ ít giờ đầu sau khi rời vùng
biển Đà Nẵng, những ngọn núi cao chót vót của Tiên Sa, Hải Vân bắt đầu mờ dần.
Sau khi khuất hẳn, chúng tôi chuyển từ hàng hải cận duyên qua hàng hải viễn
duyên, từ mắt thường qua radar và cuối cùng là Loran để định vị trí con tàu. Sĩ
quan trưởng phiên bắt đầu làm con thoi từ đài chỉ huy xuống phòng Loran để kiểm
tra lại vị trí phỏng định và chỉnh lại hải trình. Cả ngày hôm đó trời nắng nhẹ,
gió Đông Bắc cũng nhẹ nhàng thổi mang theo vị mặn của nước biển thấm đầy áo
quần, mặt mũi, tóc tai. Tàu vẫn nhẹ nhàng lướt sóng, miệt mài đi giữa những âm
thanh ngọt ngào của biển cả. Trên boang tàu, các hạ sĩ quan và thủy thủ ngành
trọng pháo, vận chuyển đang lăng xăng với công việc thừơng lệ, gõ sét, lau
chùi, sơn và vô dầu mỡ. Chẳng mấy ai băn khoăn vì đã trễ hẹn cho một ngày về,
và cũng chẳng ai buồn nhớ đến câu thơ muôn thở của kiếp hải hồ:
Năm năm gõ sét đau lòng lính
Gõ sét năm năm sét vẫn còn.
Gõ sét năm năm sét vẫn còn.
Dưới hầm máy, nhân viên cơ điện khí cùng với Đại Úy
Hiệp và các sĩ quan phụ tá loay quay bên những cỗ máy. Hai máy điện của hữu hạm
đang trục trặc, tạm ngưng hoạt động.Máy ép gió nằm cùng bên cũng bị hư. Mọi
hoạt động của tàu là nhờ vào phía tả hạm. Dầu sao tàu cũng đã qua hơn một tháng
công tác ở cái vùng biển khốn khổ giá lạnh này. Quân số cũng chỉ còn lại khoảng
hai phần ba, nghĩa là chỉ trên 100 mạng, sau khi đã thay phiên nhau đi phép mấy
đợt mà chẳng ai trở lại trình diện vì tàu cũng sắp về. Hiện giờ có lẽ họ đã
trình diện ở Bộ Tư Lệnh Hạm Đội chờ "phương tiện", nhưng thực tế là
chờ đón tàu về như những người khác. Bằng mọi giá, tàu vẫn phải hoàn thành công
tác, và mọi công việc trên chiến hạm cứ tiếp tục chạy đều.
Đa số sĩ quan trên chiến hạm đều còn trẻ, chưa quá 30,
độc thân vui tính, kể cả sôi nổi nhiệt tình, một số ít thì rất to miệng, trong
đó phải kể đến Trần Văn Bính khóa 19, Nguyễn Hữu Công khóa 20 cơ khí, và Đoàn
Viết Ất khoá 4/OCS. Trong giờ nghỉ trưa hoặc tối, phòng ăn sĩ quan lúc nào cũng
trở thành một bãi chiến trường với nước bọt văng tung tóe; với Ra-my, xập xám,
domino; với khói thuốc, hơi cà phê và hơi người. Giữa những tiếng nói, tiếng
cười, tiếng cãi cọ, ồn ào như chợ vỡ là tiếng vo-vo, rè rè của bốn cái máy lạnh
chạy hết tốc lực, được gắn 4 góc phòng. Hạm Trưởng, Trung tá Lê Văn Thự, khóa
10 là một người khắc khổ, khó tính nhưng không nạt đùa mà nói năng có phần hòa
hoãn. Chuyến này, ông đang bận với hai ông khách (cố vấn và ông TT/BB), lại có
phòng ăn riêng, nên cái giang sơn của đám sĩ quan trẻ trở thành tự do vô cùng.
Nhất là trong đám đi phép lại có Hạm phó Thiếu Tá Trần Văn Hoa Em. Giang sơn
chúng tôi hiện chỉ còn Đại Úy Hiệp khóa 14 (cơ khí trưởng) là thâm niên hiện
diện. Là một người trắng trẻo, cao ráo, đẹp trai, tính tình lại cởi mở, ôn tồn,
Đại Úy Hiệp còn là sĩ quan sẵn sàng hội nhập vào mọi cuộc vui của đám đàn em.
Cũng xập xám, domino; cũng đấu đá bỡn cợt. Ngược lại, sĩ quan đệ tam, Đại Úy
Nam, khóa 15, nhỏ con và trầm lặng. Tuy vui vẻ dễ dãi nhưng ít khi nhập cuộc.
Trước mọi bốc đồng năng nổ của chúng tôi, Đại Úy Nam chỉ ngồi nhìn, mỉm cười.
Thành ra, cái phòng ăn rộng thênh thang trên HQ 16 trở thành nơi tự do và thỏai
mái cho đám sĩ quan lau nhau cỡ Trung Úy, Thiếu Úy sau mọi nhiệm sở và công
việc. Từ sau hiệp định Paris, số sĩ quan được đào tạo từ lò Nha Trang và OCS
được chuyển về rất đông, vượt xa bảng cấp số. Chả bù với thời gian lúc tôi mới
được thuyên chuyển về Hộ Tống hạm Chí Linh HQ 11 vào khoảng tháng 10/1970, cả
một chiếc PCE tối tân nhất thời đó, người Hạm Trưởng và cơ khí trưởng, kiếm cho
đủ sĩ quan làm 3 trưởng phiên là đủ mệt. Hạm phó gần như do tôi xử lý thường vụ
sau khi xuống tàu chưa được 1 tuần. Xuống tàu, làm phụ tá cho Hạm Phó Nguyễn
Tường đúng 1 chuyến công tác 4 ngày trên biển cả là ông ta đi luôn, để lại cho
tôi cả phiên, cả tàu trong khi tôi chỉ được coi như mới ra trường. Vì rằng sau
khi đi thực tập đệ thất hạm đội về là làm cán bộ cho tiểu đoàn sinh viên OCS,
một quân trường nối dài. Vậy đó, vậy mà giờ đây trên HQ 16, có đến 22 sĩ quan
trên 14 ở bảng cấp số. Các thiếu úy và chuẩn uý được chuyển về ngủ ở phòng ngủ
thượng sĩ. Hạm phó đương nhiên miễn đi "quart", trưởng phiên lúc nào
cũng có 2,3, sĩ quan phụ tá.
Chúng tôi đến Hoàng Sa khi trời tối. Trăng thượng tuần
mờ mờ ở phía Tây, sắp tắt. Len lỏi giữa những đảo nhỏ đầy những bãi san hô ngầm
bao bọc chung quanh, với tầm nhìn hạn chế, chúng tôi phải rất thận trọng đưa
tàu đến trước đảo Pattern (hay thừơng được gọi là Hoàng Sa), thả trôi cách đảo
1 hải lý về phía Nam. Trong bóng tối mờ mờ, giữa mặt biển mênh mông, chập chùng
một màu xanh biếc đang chuyển dần sang một màu tối sẫm, nổi lên ba vành đai cát
vàng ôm lấy ba chòm cây thấp tè ở giữa. Nếu chỉ nhìn lên một đảo ở trước mặt,
hình ảnh đó trông cũng quen thuộc như khi tàu đi qua một vùng xóm làng ven biển
nào đó của miền Nam với đất phù sa và rừng tràm, rừng đước. Không thấy gì rõ
nét, nhưng chúng tôi cũng hình dung ra được những nét hân hoan của đoàn quân
trú đóng trên đảo khi được chúng tôi báo tin là sẽ có một phái đoàn viếng thăm
đảo vào ngày mai. Với những người mà đã mấy tháng trời như bị lưu đày giữa đảo
hoang, làm bạn với chim cá, thì sự hiện diện của chiếc tàu và đoàn khảo sát là
một biến cố trong đại trong thời gian ở đảo.
Hoàng Sa là tên bằng tiếng Việt Nam để gọi chung
một quần đảo gồm nhiều đảo rất nhỏ nằm ngoài khơi hai tỉnh Thừa Thiên - Quảng
Nam, cách bờ biển nước ta khoảng chừng 350 km. Quần đảo có hai nhóm.
Một nhóm nằm
phía Đông Bắc, có tên gọi là Amphibious đã bị Trung Cộng chiếm giữ đâu khoảng
từ năm 1956-1957 gì đó.
Nhóm hai nằm hướng Tây Nam Croissant, thuộc chủ
quyền trực tiếp của Việt Nam Cộng Hòa, có tên là Croissant, gồm 1 đảo lớn nhất
tức đảo Pattern (Hoàng Sa) mà tàu chúng tôi đang đậu. Đảo dài khoảng 1.5 hải lý
(mile), bề ngang khoảng 1 cây số. Phía Nam, hơi chếch về bên trái là 2 đảo
Robert và Money, cách Pattern khoảng 3,4 hải lý. Xa hơn nữa, khoảng 7,8 hải lý
và chếch về bên phải là 2 đảo Duy Mộng (Duymont) và Quang Hòa (Duncant). Nằm
một mình lẻ loi giữa biển khơi bát ngát, phía Tây Nam của Pattern, cách đó
chừng 15 hải lý là đảo Tri Tôn (Triton). Ngoài ra còn nhiều đảo nhỏ khác như
những hòa đá khổng lồ nổi trên mặt nước, không tên, không tuổi, nằm rãi rắc đây
đó; đặc biệt nhiều là bên cạnh nhóm Quang Hòa và Duy Mộng. Giữa vùng biển rộng
mênh mông, những đảo nhỏ nhô lên như những dấu chấm trên hải đồ, và con người,
một trung đội Địa phương quân, thuộc quân số tỉnh Quảng Nam, đóng lọt thỏm trên
một đảo độc nhất, đảo Pattern, cùng 1 ông trưởng đài khí tượng, sẽ cảm thấy bé
bỏng chừng nào trước cái bao la của biển cả, của trời xanh. Cặp mắt họ làm sao
vượt ra khỏi khu vực đóng quân, doanh trại, nơi ăn chốn ở, và những lần câu cá
nhặt trứng chim. Tâm hồn họ không thoát khỏi niềm ước mơ được có tầu tiếp tế,
được có người đến thăm, nhận những lá thư, đọc câu chuyện tình hay chưởng. Còn
trí óc thì mong chờ đến ngày hết hạn, có đơn vị khác thay thế, để cho họ qua
khỏi giới hạn của 6 tháng lưu đày. Nhiệm vụ của họ cũng không phải là một hành
động quân sự tích cực, mà như một thủ tục, sự hiện diện của họ như một cột mốc
để tuyên bố chủ quyền. Thế cho nên khi chúng tôi phát hiện, thì quân đội Trung
Cộng đã chiếm 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa không biết đã bao lâu rồi. Trên đó
chúng đã đặt đài quan sát, xây dựng doanh trại, và theo báo cáo của nhóm người
nhái đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra thì có cả một tiểu đoàn lính trú đóng.
Có thể là sau khi hoàn tất chương trình trên hai hòn đảo phía Nam, chúng mới
mon men lên phía Bắc, dự trù làm nốt đảo Money và Robert bên nách của Hoàng Sa.
Nếu chúng không dùng chính sách tằm ăn dâu này, mà chỉ bằng lòng với khu vực
phía Nam đó, thì có lẽ lịch sử đã đổi khác. Tàu chúng tôi sẽ lặng lẽ trở về Đà
Nẵng để về Sài Gòn, sẽ không có trận hải chiến Hoàng Sa, trận hải chiến độc
nhất trong lịch sử của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, và đảo Hoàng Sa (Pattern) có
lẽ sẽ không rơi vào tay Trung Cộng.
Buổi sáng ngày 16/1/74, chúng tôi chuẩn bị một xuồng
đổ bộ và 4 nhân viên, trong đó có một hạ sĩ quan vận chuyển, chở 6 người của
phái đoàn lên đảo rồi sau đó đem xuống về tàu. Công tác hoàn tất tốt đẹp. Thế
là những người khách của chúng tôi đã giã từ và theo dự trù sau vài ngày, chúng
tôi sẽ vào đón họ để đưa trả họ lại cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật. Ngày hôm
đó nắng đẹp và có vẻ chói chang hơn hôm trước. Trời trong xanh. Tàu chúng tôi
vẫn trong tình trạng thả trôi trong vùng biển yên lặng. Không một ngọn gió nào,
sóng vẫn lăn tăn, và vùng biển êm như mặt hồ. Tôi nhận "quart" trưa
1200 - 1500H. Không có việc gì làm, chỉ theo dõi tình trạng trôi của tàu, nếu
cần điều chỉnh lại chút đỉnh. Việc đổ bộ đã hoàn tất vào buổi sáng. Hạm trưởng
xuống nghỉ trưa. Các sĩ quan phụ tá và nhân viên đi quart tụ lại nói chuyện
phiếm. Tôi ngồi lên thành tàu, bên cạnh khẩu đại liên 30 và ngay dưới chân phía
sau lưng, ở tầng dưới có buồng lái, là một ổ đại bác 20 ly đôi đang nằm trong
bọc bạt. Buổi trưa hơi nóng, lại không có việc gì làm, chuyện trò rồi cũng hết
hứng thú. Im lặng lại trở về sau khi mỗi người dãn ra một góc, lơ đãng nhìn
trời. Tôi cũng im lặng thả từng hơi khói thuốc Bastos ra trước mặt, lơ lửng
cuộn thành vòng tròn rồi tan vào khoảng hư không, trí óc bổng trở nên phiêu
đảng bồng bềnh.
Bỗng tôi chú ý ở trước mặt đảo Robert, ngang hông
chiến hạm, một chiếc tàu đang lửng lơ bên cạnh đảo. Chiếc tàu nhỏ, cỡ bằng
những chiếc tàu đánh cá Đài Loan mà tôi thường gặp trong vùng biển cận duyên.
Tôi cũng cho đây là tàu đánh cá, nhưng hơi lạ là nó vào sát bờ quá. Mà tàu đánh
cá nào lại không biết đây là hải phận Việt Nam, trong khi chúng tôi, anh khổng
lồ HQ 16 và cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới ? Tôi nói thầm, đi đâu cũng
gặp mấy người Đài Loan cả. Nhưng khi đưa ống nhòm lên nhìn, nó không giống với
những chiếc tàu đánh cá thường gặp. Thân nó hơi ngắn so với bề ngang to bề, đài
chỉ huy lại có vẻ bề thế như một chiếc tàu quân sự. Tàu lại sơn màu tối, như
màu ô-liu, phía đuôi có treo cờ tuy không trông rõ màu sắc. Lúc đó, mọi người
trên đài chỉ huy chẳng ai quan tâm về sự hiện diện của tàu đánh cá, nhưng vì
ngạc nhiên, tôi cho lệnh giám lộ viên đánh đèn để hỏi và đồng thời cho nổ máy,
quay mũi, trực chỉ phía Nam. Có lẽ vì trời nắng, mọi người nghỉ trưa nên ánh
sáng đèn scott không đánh động được ai. Tàu địch vẫn im lặng, hình như không
bắt được tín hiệu. Sau khi hội ý với Hạm Trưởng, tôi cho khai hỏa khẩu đại liên
30, vừa để gợi sự chú ý, vừa có ý đuổi nó ra xa khỏi đảo. Tiếng súng nổ đòn dã
giữa buổi trưa yên tĩnh dường như làm cả tàu thức giấc nhưng đối tượng vẫn
không nhúc nhích. Bao nhiêu ống nhòm đổ đồn vào nó, và khi tàu đến gần hơn, nền
cờ đỏ và 5 ngôi sao vàng ở ngay góc làm cho tôi hơi khựng lại. Tàu Trung Cộng.
Sự phát giác này là một điều gây ngạc nhiên cho nhiều người. Hầu hết đều cho là
tàu đánh cá của Đài Loan, hay nếu ai có trí tưởng tượng phong phú hơn, cho là
tàu đánh cá Liên Sô để đi dò thám như chúng tôi thường gặp khi thực tập trên Đệ
Thất Hạm Đội. Chưa ai nghĩ đây là tàu Trung Quốc, và càng không ai nghĩ xa hơn
đến dã tâm xâm lược của Trung Cộng. Khi Hạm Trưởng lên đài chỉ huy thì chúng
tôi đã gần nhau lắm rồi, chưa đầy 500m. Mọi người đã thấy rõ cờ Trung Cộng bằng
mắt thường. Hạm Trưởng khẩn báo về Trung Tâm Hành Quân Hải Quân Đà Nẵng và xin
chĩ thị, đồng thời cho nhân viên dùng tay, dùng cờ, dùng máy phóng thanh phát
bằng tiếng Tàu để yêu cầu nó ra khỏi hải phận Việt Nam. Mặc dù chúng tôi không
nhận được sự trả lời nào, cũng không thực hiện lời yêu cầu của chúng tôi, nhưng
sự xuất hiện của chúng tôi có lẽ cũng khuấy động sự yên lặng cố hữu lì lợm của
tàu Trung Cộng. Hàng chục nhân viên lên boong tàu nhìn sang chúng tôi, kỳ lạ,
xoi mói và ngạc nhiên. Phần đông mặc áo thun trắng quần cụt. Một số mặc áo quần
bộ đội Trung Quốc, màu ô-liu nhạt hơn màu tàu.
Cũng vậy, sự hiện diện của tàu Trung Cộng đảo lộn hết
mọi công tác hàng ngày. Hạm Trưởng chú tâm đến tàu địch cùng liên lạc với Vùng
1 Duyên Hải, sĩ quan thì tụ tập từng nhóm bàn tán đủ mọi giả thuyết. Nhân viên
đứng đầy một bên lan can tàu nhìn sang như đang nhìn một quái vật. Trong khi đó
trên đài chỉ huy vẫn oang oang phát ra từng chập những lời lẽ bằng tiếng Trung
Quốc yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam. Lúc đầu là cuộc đối thoại với người câm
nhưng sau đó, họ cũng dùng loa phóng thanh cầm tay để yêu cầu ngược lại, chúng
tôi phải rời khỏi hải phận Trung Quốc. Cứ như vậy mà tiếp tục suốt cả buổi
chiều mà chẳng bên nào nhượng bộ. Đêm đó chúng tôi đành bỏ dở chương trình phát
thanh để chạy ra xa hơn đễ giữ an toàn cho chiến hạm. Và cũng từ đêm đó, nếp
sinh hoạt trong phòng ăn cũng thay đổi tuy tiếng nói cười vẫn oang oang như
lệnh vỡ. Những trò chơi cũ như xập xám, domino ế khách. Các sĩ quan quay quần
quanh bàn ăn để tiếp nối những cuộc thảo luận "trời ơi đất hỡi" về
việc xuất hiện của tàu Trung Cộng. Buổi sáng ngày 17/1/74, bổn cũ được soạn
lại, Nghĩa là cũng máy phóng thanh, phát ra và trả lời, cũng mấy anh thủy thủ
gốc Chợ Lớn làm xướng ngôn viên. Chỉ khác một điều là thêm một tàu đánh cá khác
xuất hiện cạnh đảo Money. và trăm lá cờ Trung Cộng được cắm rãi rác dọc bờ biển
trên vùng cát trắng. Chỉ có đảo Rorbert mà tàu tôi ở gần là còn trinh bạch,
chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó. Chúng tôi cũng không hiểu là có phải
cờ đó được cắm trong đêm hay đã nhiều ngày qua, nhưng dầu sao giả thuyết được
cắm trong đêm cùng với sự xuất hiện của tàu thứ hai có vẻ đúng.
Khoảng 2 giờ chiều hôm đó, khu trục hạm Trần Khánh
Dư HQ 4 nhập vùng cùng 1 trung đội người nhái. Hạm Trưởng là Hải Quân
Trung Tá Vũ Hữu San, đã từng một thời là Hạm Trưởng HQ 11 khi tôi phục vụ
trên đó. Có lẽ ông đã nhận được mật lệnh và kế hoạch từ Tư Lệnh Hải Quân Vùng
I, nên vừa nhập vùng, ông đã hành động ngay. HQ 4 từ phía Nam đảo Money
chạy lên, HQ 16 từ đảo Pattern xuống, chúng tôi như hai gọng kềm kẹp
chặt hai chiếc tàu đánh cá nhỏ bé của Trung Cộng vào giữa.
Có lẽ cũng ngán chúng tôi sẽ có thái độ khác với những
ngày qua, chiếc thứ hai từ đảo Money chạy lên họp cùng chiếc thứ nhất và ra xa
khỏi đảo Robert khoảng hơn 1 hải lý. Thế là gọng kềm lại siết chặt hơn. Cuộc
chiến bằng nước bọt lại bùng nổ dữ dội. Mặc dù cỏ vẻ e dè, 2 chiếc tàu Trung Cộng
vẫn ngoan cố bám vùng, và vẫn trả lời chúng tôi bằng giọng điệu cố hữu:
"Hãy ra khỏi hải phận Trung Quốc". Bốn chiếc tàu, 2 lớn ở ngoài, 2
nhỏ ở giữa vẫn thả trôi bình yên để mặc cho con người đấu khẩu.
Có lẽ không còn kiên nhẫn được nữa, HQ 4 nổ máy đâm
thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi. vì vận tốc chậm, có lẽ khoảng 2
máy tiến 1, nên không có thiệt hại nào cho bên địch, nếu có, có lẽ bát đũa nồi
nêu cơm nước bị đổ bể tùm lum trong phòng ăn và nhà bếp. trước thái độ quyết
liệt của HQ 4, tàu Trung Quốc đành nhượng bộ, mở máy, từ từ tăng tốc
độ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, để lại chiến trường
một vùng nước bọt trắng xóa. Chúng tôi toàn thắng mà không tốn một viên đạn
(chỉ tốn một cái húc của Trung Tá Vũ Hữu San).
Đến đây người viết cần phải ngừng lại một chút vừa để
hoan nghênh Trung Tá San vừa để ghi lại cảm nghĩ và óc phán đoán của chính mình
về kết quả của trận hải chiến Hoàng Sa cùng thái độ của Trung Cộng, sau những
mười mấy năm lăn lộn trong gông cùm của xã hội chủ nghĩa.
Theo tôi, sau ngày họp thượng đỉnh với Tổng Thống
Nixon tại Bắc Kinh. Trung Cộng bắt đầu có tham vọng bành trướng thế lực ở biển
Đông. Việc chiếm đóng hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa đã chứng minh điều đó. Tuy
nhiên Trung Cộng không muốn dùng võ lực để giải quyết tranh chấp vì e ngại Mỹ,
nên dùng chính sách tầm ăn dâu, nghĩa là điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa.
Nghĩa là những đảo nào không có ai chiếm cứ, Trung Cộng sẽ đến thiết lập các
căn cứ, và mọi chuyện sẽ trở thành chuyện đã rồi. Do đó, nếu sau khi đuổi 2
tàu đánh cá Trung Cộng đi khỏi 2 đảo Robert và Money, Việt Nam Cộng Hòa cứ cho
quân đội ra xây dựng trên đó, giữ đảo, dùng ngoại giao để công kích, thì tuy
không lấy lại được 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, cũng không mất luôn 3 đảo lớn
nhất vùng là Pattern, Robert, Money, và vĩnh viễn Hoàng Sa không bao giờ trở
lại chủ quyền Việt Nam. Sau này Trung Cộng cũng dùng chính sách tương tự để
xâm chiếm các đảo nhỏ ở Trường Sa, nghĩa là các nơi chưa có ai trấn đóng, và
cũng vì tự ái như thời Việt Nam Cộng Hòa, Cọng Sản Việt Nam đã gây ra cuộc hải
chiến với Trung Cộng, để từ đó Trung Cọng chiếm luôn một số đảo nữa.
Trở lại chiều ngày 17/1/1974. Sau khi
"đánh tan" 2 tàu Trung Cộng đi, HQ 4 cho đổ bộ khoảng 20 người nhái
lên đảo Money, thu dọn cờ Trung Cộng, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa, và HQ 16
chuẩn bị 1 xuồng đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert ngay tối hôm đó. 15
nhân viên này phần lớn được lựa chọn trong ngành trọng pháo, mang theo súng
ống, đạn dựơc cá nhân đầy đủ, cùng thực phẩm khô dùng trong vài ba ngày. Toán
đổ bộ do Hải Quân Trung Uý Lâm Trí Liêm Chí Huy. Liêm vốn là sĩ
quan khóa 10 OCS, sau khi về nước, phục vụ phần lớn tại giang đoàn, do đó được
Hạm Trưởng chọn lựa vì hy vọng rằng Liêm sẽ có kinh nghiệm trên đất liền nhiều
hơn là trên chiến hạm. Kết quả cho thấy sự chọn lựa này rất đúng, vì sau khi
tàu 16 buộc phải rời vùng mà không thể bốc toán đổ bộ của Liêm, Liêm đã chỉ huy
toán vượt biển trên xuồng đổ bộ và sau 15 ngày đói khát, đã được ngư dân Qui
Nhơn cứu sống. Chỉ một người chết sau khi đã lên thuyền ngư dân. Súng ống,
máy truyền tin được đem về đơn vị đầy đủ. Trong ngày vượt thoát, toán đổ bộ chỉ
còn 2 ngày lương khô và 1 can 18 lít nước đã dùng gần hết sau 2 ngày trên đảo.
Toàn bộ 15 người - kể cả người đã chết - được thăng thưởng 1 cấp. Liêm được
thăng đại uý nhiệm chức sau chưa đầy 1 năm mang lon trung uý.
Khoảng 6 giờ chiều ngày 17/1/1974, lúc đó trời còn lại
vài tia nắng yếu ớt chiếu rãi rác trên mặt biển xanh rờn, 2 chiến hạm thực
thụ của hải quân Trung Quốc xuất hiện. Căn cứ theo sự quan sát lúc đó và
trong ngày giao chiến, chúng thuộc loại Konstrat của Liên Sô chế tạo, dài
khoảng gần 100 mét, nghĩa là gần bằng HQ 16, nhưng bề ngang hẹp hơn. Vận tốc
tối đa khoảng gần 30 knots, nghĩa là gần gấp đôi HQ 16. Trang bị cũng không có
gì tối tân lắm. 1 khẩu đại bác 100 ly trước mũi, 2 khẩu đại bác 37.6 ly hai bên
về phía trước và hình như 1 khẩu phía sau. Còn ngoài ra là loại súng nhỏ. So
sánh về hỏa lực thì bên ta có phần trội hơn. HQ 16 có 1 khẩu 5"
(127) trước mũi. Sau đó là 2 khẩu 40 ly đôi và 1 đại bác 40 ly đơn ở sau lái.
Không kể 2 dàn đại bác 20 ly đôi bên hông phòng lái ngay dưới đài chỉ huy, 2
dàn 20 ly đơn ở sân thượng phía sau, cùng 5 khẩu súng cối 81 ly. Hai chiến hạm
này sau khi nhập vùng, cũng chỉ về lẩn quẩn ở hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng.
Không thấy có hành động khiêu chiến, nhưng chúng chắc chắn giữ bằng được 2 đảo
đó mà hành động nghênh cản của chúng vào ngày hôm sau đã chứng tỏ điều đó.
Bữa cơm tối ngày 17-01-1974, phòng ăn sĩ quan có vẻ
trang nghiêm hơn lệ thường. Những tiếng nói cười cũng ít đi, tiếng hỏi đáp có
vẻ cố hạ giọng chỉ vừa đủ cho người đối diện nghe. Không khí như ngưng lại dành
chỗ cho loa phóng thanh phát đi bản tin hàng ngày. Cũng trái với lệ thường,
bản tuyên cáo của chính phủ VNCH về vấn đề Hoàng Sa được đọc trước bản tin đầu
giờ. Trong bản tuyên cáo đó, bộ Ngoại giao thay mặt chính phủ và nhân dân Việt
Nam tuyên bố Hoàng Sa là vùng lãnh thổ không thể chuyển nhượng của mình, căn cứ
trên thực tại và các chứng cứ trong lịch sử, đồng thời tố cáo trước dư luận quốc
tế việc lấn chiếm hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng của Trung Cộng - Sau cùng, để
giải quyết vấn đề, chính phủ VNCH đề nghị cả hai cùng đưa vấn đề ra xét xử
trước tòa án quốc tế La Haye. Mọi người cũng cố ý lắng nghe bản tin thời sự
và chiến sự trong ngày. Như một sự tò mò cố hữu, ai cũng muốn biết đài phát
thanh nói như thế nào về hoạt động của chính mình, những người đang đối diện
với kẻ thù giữa đêm đông trong vùng biển xa khơi này. Tôi không nhớ rõ chi tiết
bản tin, nhưng cái tên tuần dương hạm Lý Thường Kiệt được đài phát thanh nhắc
nhở nhiều lần. Và chính sự nhắc nhở đó đã gợi cho một sĩ quan nào đó một sự so
sánh tuy không chuẩn xác nhưng nghe đầy hào khí :
- Ngày xưa vị anh hùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh
Tống, ngày nay lại tuần dương hạm Lý Thường Kiệt cũng sẽ sẵn sàng đuổi quân
Trung Cộng ra khỏi Hoàng Sa.
Câu nói vô tình bỗng nhiên phá vỡ cái vẻ trang nghiêm
tạm thời và cái sinh hoạt sôi động của phòng ăn trở lại trạng thái nhộn nhịp
như cũ. Mọi người thay nhau bàn luận về những việc hiện tại, cùng kể lại những
bài học lịch sử đánh Tống bình Nguyên đuổi Minh của những vị anh hùng thời
trước. Và nhờ đó, nhiệt tình của tuổi trẻ được dịp bốc cao như thử chúng tôi
sắp sửa biến thành những anh hùng.
Sáng ngày 18-01-1974, HQ5 hiện diện trong vùng như một
sự tăng cường cần thiết. Đây là một tuần dương hạm cùng loại với HQ16 (Whec)
do một vị Trung Tá (Lê Văn Thự) chỉ huy. Cùng đi trên HQ5 là Hải quân
Đại Tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương trực thuộc Bộ Tư
lệnh Hạm Đội, được chỉ định làm Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm Hoàng Sa. Như
vậy, lực lượng hiện có 3 chiến hạm (HQ4 -HQ5-HQ16) và sẽ có thêm Hộ tống hạm
Nhật Tảo (HQ10) đang trên đường đến nhập vùng. Sự hiện diện của một vị sĩ
quan cao cấp đã từng tu nghiệp ở đại học hải chiến Hoa Kỳ làm cho chúng tôi
thêm tin tưởng. Có lẽ để thực hiện cái sở học của mình, nên sau khi nhập vùng
và nhận quyền chỉ huy, Đại Tá Ngạc đã hội ý cùng các Hạm trưởng qua máy
truyền tin và ngay buổi trưa hôm đó, hình thành một kế hoạch mà tôi tạm gọi là
"phô diễn lực lượng" sẽ khởi sự vào buổi chiều. Có lẽ kế hoạch chỉ là
để thăm dò khả năng của các chiến hạm hơn là một cuộc hành quân, bởi vì trong
kế hoạch, mặc dù các chiến hạm đều ở trong nhiệm sở tác chiến nhưng mọi khẩu
pháo đều được quay cao 45độ. Chúng tôi thực hiện kế hoạch thao diễn với lòng
hăm hở được một dịp thực tập vận chuyển chiến thuật mà từ lâu đã bỏ quên sau
khi rời khỏi ghế nhà trường. Những ý niệm về đội hình hàng dọc, hàng
ngang ; những màu cờ của Golf, Code ; những quay phải quay trái; những vận
tốc cùng hướng đi biểu kiến; tất cả sẽ được tái tạo lại trong một buổi chiều
đẹp trời. Với ba chiến hạm, lực lượng của chúng tôi trông ra có vẻ hùng dũng
lắm rồi. Đi đầu là hai tuần dương hạm bệ vệ (HQ16 rồi đến HQ5),
nước sơn còn mới với hai khẩu đại pháo 127 ly, rồi sau cùng HQ4 tuy nhỏ
con nhưng cũng nhanh nhẹn và đặc biệt lại còn mang hơi hướm hiện đại của một
khu trục hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Bắt đầu chiến dịch với ba rừng cờ phất phới
trên ba cột buồm, lồng lộng trong gió chiều và trong nắng vàng cuối đông. Những
dàn ra đa khổng lồ đang quay chầm chậm vừa làm nhiệm vụ trấn thủ vừa cung cấp
dữ kiện để đo khoảng cách và vận tốc của tàu địch. Trên đài chỉ huy, các giám
lộ viên có tay nghề cao nhất đang chờ lệnh và sẵn sàng thực hiện những khẩu
lệnh của Hạm trưởng liên quan đến cờ đèn và giải thích cùng báo cáo những hiệu
kỳ của soái hạm. Chúng tôi tiến theo đội hình hàng dọc, từ phía nam đảo Pattle
và trực chỉ 160 độ về hai đảo Quang Hòa - Duy Mộng. Tất cả cùng hai máy tiến 2,
cách khoảng 500 mét, đàng hoàng tiến về phía địch như những hiệp sĩ thời trung
cổ. Khi vừa chạy được 1 hải lý, hai chiến hạm Trung Cộng mang số hiệu 300 đang
nằm im trong vùng biển, cùng nổ máy tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc
tiến đến hướng chúng tôi. Chiến hạm của chúng chạy rất nhanh, có lẽ hai máy
tiến full, nên để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa và tạo ra những làn
sóng bập bềnh. Tuy nhiên, cả đội hình chúng tôi vẫn bình thản tiến theo lộ
trình. Khi đến cách chúng tôi chừng dưới một hải lý, chiếc đi đầu bỗng quay trái,
được một đoạn ngắn là quay trở ngược chiều (180 độ) chạy băng ngang trước mũi
HQ16. Chỉ vừa qua khỏi, chúng lại lộn ngược trở lại về phía phải để làm một
đường ngang khác. Và chiếc sau cũng lặp lại những động tác y như vậy để rồi
cuối cùng cái đường dăng ngang của chúng chỉ cách mủi tàu chúng tôi chưa tới
150 mét. Vì chúng chạy với vận tốc tối đa, mà chúng tôi đo được 28 gút, khoảng
cách lại quá gần nên những lượn sóng do chúng tạo ra làm tàu chúng tôi bồng
bềnh như có gió mạnh. Cái hàng rào tưởng tượng mà chúng dăng ngang làm chúng
tôi thấy khó xử. Không thể xử dụng võ lực, cũng khó tiến thêm vì có thể đụng
chạm. Cuối cùng, chúng tôi được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng Bắc.
Kế hoạch "phô diện lực lượng" thế là hoàn tất, và mặc dầu không rõ
hết ý đồ của vị Tư lệnh lực lượng, chúng tôi đều cảm thấy hài lòng với một vài
dữ kiện có thể nắm được, đó là sự quyết tâm của các chiến hạm ta trong việc bảo
vệ lãnh-hải. Chúng tôi cũng thấy cái lợi thế vận tốc gần gấp đôi của các chiến
hạm địch (28/16) để đề-phòng.
Buổi tối, ngay vùng biển phía bắc, giữa vùng lòng chảo
của các đảo bao bọc, chỉ có một mình HQ16 đơn độc trấn đóng với một quân
số chỉ hơn trăm người, HQ4 và HQ5 cùng trở về phía nam của hai đảo Quang
Hòa, Duy Mộng, để rồi khoảng 10 giờ tối, HQ10 tới nơi và nhập với HQ16
trở thành phân đội 1 do HQ Trung tá Lê Văn Thự (Hạm trưởng HQ16) chỉ
huy. HQ4 và HQ5 là phân đội 2 do Hạm Trưởng HQ4 chỉ huy. Tất cả
đều dưới quyền chỉ huy thống nhất của Đại tá Ngạc, tư lệnh lực lượng đặc
nhiệm.
HQ10 là một hộ tống hạm (PCE) dài khoảng 60 mét với
một quân số trên 70 người theo bảng cấp số. Được trang bị một đại bác 76.2 ly ở
trước mũi và 2 đại bác 40 ly đơn ở boong trên sau lái. Vận tốc tối đa là 13
gút. Hạm Trưởng là Hải quân Thiếu tá Nguỵ Văn Thà, hình như khoá 12 và Hạm phó
là Hải quân Đại uý Nguyễn Thành Trí khoá 17. Đại uý Trí mới về làm hạm phó HQ10 chỉ
trong vòng 3 tháng sau khi tốt nghiệp khóa 2/73 trung cấp chuyên nghiệp Hải
quân tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Sài Gòn. HQ10 đến giữa lúc chúng
tôi đang cảm thấy cô độc giữa các hòn đảo xung quanh và làm chúng tôi an tâm
phần nào.
Thực ra, sự phân chia thành phân đội cũng như lệnh bổ
nhiệm các phân đội trưởng chỉ chính thức được ban hành cùng với lệnh hành quân
do tư lệnh LLDN / Hoàng Sa gởi cho các chiến hạm vào khoảng 12 giờ đêm
18-01-1974. Mục đích của cuộc hành quân này là chúng tôi sẽ tái chiếm 2 đảo
Quang Hòa và Duy Mộng vào ngày hôm sau (19-01-1974) và chúng tôi sẽ phải hoàn
tất mọi sự chuẩn bị để sẵn sàng tác chiến trước 6 giờ sáng. Nhiệm vụ
chính của phân đội 2 là đổ bộ khoảng một trung đội người nhái lên đảo và nhiệm
vụ của phân đội 1 (HQ16 + HQ10) là yểm trợ hỏa lực. Tuy nhiên, ngoài việc
phản công phân nhiệm, phần ghi chú cuối cùng trong lệnh hành quân có hai câu mang
đầy mâu thuẫn : Tái chiếm hai đảo bằng bất cứ giá nào nhưng tránh tối đa việc
xử dụng hỏa lực. Sự mâu thuẫn này đã gây ra một cuộc bàn cãi khá sôi nổi và mất
không ít thời gian vào lúc một nhóm chúng tôi ngồi canh câu lạc bộ của chiến
hạm để uống cà phê buổi sáng. Cuối cùng chúng tôi tạm đưa ra một kết luận rằng
đây chỉ một đòn chiến tranh tâm lý để làm an lòng các sĩ quan và chiến sĩ thuộc
quyền.
Chúng tôi bị đánh thức dậy lúc khoảng 1 giờ sáng ngày
19-01-1974 và được lệnh tập họp tại phòng ăn đoàn viên. Hầu hết mọi người vẫn
còn ngái ngủ hoặc đang mệt mỏi vì vừa giao ca xong lúc 12 giờ nên phòng ăn đông
người mà vẫn yên lặng. Hơn nữa, lần tập họp bất thường giữa đêm khuya trong cái
không khí căng thẳng và đầy thuốc súng này thì ai cũng hiểu là có chuyện. Và
chuyện gì khác hơn là sự báo trước của một cuộc chiến sắp mở màn? Thời gian chờ
đợi Hạm trưởng đến không dài và các cửa phòng đều đóng kín nhưng tôi tự nhiên
thấy lạnh. Cơn lạnh cuồn cuộn bốc ra từ bao tử, lan dần đến ngực, bụng và toàn
châu thân. Tôi ngần ngại nhìn mọi người vì cảm thấy không lẽ mình quá hèn nhát.
Để trấn tĩnh, tôi vươn vai ngáp dài rồi đưa tay che miệng, sau đó lôi thuốc
Bastos ra hút. Châm được điếu thuốc trên ngọn lửa của cái bật lửa zippo mà tôi
cảm thấy khó khăn vì hình như ngọn lửa rung rinh trên bàn tay run rẩy. Hít được
khói thuốc vào tận buồng phổi để thấy mình dễ chịu hơn đôi chút, tôi tập trung
tư tưởng để tự mình thắng được nỗi sợ hãi và hèn nhát bằng niềm kiêu hãnh của
một sĩ quan hải quân và nhờ đó giúp cho mình đứng vững.
Hạm trưởng đến vừa đúng lúc cho tôi có dịp đứng dậy hô
"vào hàng, phắc" dù là lúc nửa đêm. Tiếng hô làm cho mình thêm can
đảm và cái lạnh không biết biến đi tự lúc nào. Với cái áo Jacket xanh khoác
ngoài bộ quân phục màu nước biển, Hạm trưởng nom có vẻ mệt mỏi. Chính sự mệt
mỏi này cùng với cái vẻ lè phè khi ông lê đôi dép Nhật tạo một sự gần gũi hơn
so với thường ngày. Ông tóm tắt nội dung lệnh hành quân và ra lệnh cho toàn thể
mọi người cố gắng vận chuyển hết đạn dược từ các kho lên đặt cạnh các ụ súng vì
sự thiếu hụt quân số (đi phép và đổ bộ lên đảo) có thể cản trở rất nhiều trong
việc tiếp tế đạn dược trong thời gian lâm chiến. Ông cũng yêu cầu Quản nội
trưởng cùng tôi (SQ nội vụ) sắp xếp lại toàn bộ các nhiệm sở cho phù hợp với
nhu cầu tình hình quân số lúc đó. Nhân viên trọng pháo bây giờ không còn được
một nửa nên số này ưu tiên dành cho đại bác 127 ly ở trước mũi và Trung uý
Đoàn Viết Ất, sĩ quan trọng pháo làm trưởng khẩu. Đích thân Hạm trưởng chỉ
định tôi làm sĩ quan Hải hành và Đại úy Nam,Trưởng khối hành quân phụ
trách phòng CIC (Trung tâm hành quân thông báo).
Phải mất hơn 2 giờ việc vận chuyển đạn dược mới hoàn
tất. Mọi người, sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên, trừ những người đang đi
"quart", đều lăn xả vào công việc. Khiêng, vác, bưng. Cả một chiến
hạm rầm rập tiếng chân người chen lẫn tiếng vỏ đạn, thùng đạn chạm vào nhau hay
vào thân tàu, sàn tàu, hợp thành một âm thanh hỗn độn. Đèn đuốc được thắp sáng
mọi nơi nhưng những ngọn đèn ở ngoài thì được che chắn cẩn thận để tránh sự
nghi ngờ của địch. Chính nhờ những hoạt động năng nổ này làm mọi người quên đi
nỗi lo âu cho số phận của mình vào ngày mai khi cuộc chiến bắt đầu, đẩy lùi lại
phía sau nỗi sợ hãi, tính hèn nhát, cũng như những thắc mắc suy tưởng.
Tôi trở lại phòng ăn đoàn viên sau khi xong việc, đến
câu lạc bộ mua một ly cà phê rồi cùng một số sĩ quan khác ngồi ngay đó nói
chuyện. Không ai trong nhóm này muốn trở về phòng để phải đối diện với thực tại
đáng lo, rồi sinh ra bi quan chán nản để trở thành một tên hèn nhát. Chúng tôi nói
mọi chuyện, từ nỗi thắc mắc về lệnh hành quân đến những câu chọc cười vô thưởng
vô phạt. Nhưng đã không còn những tràng cười khoái trá mà chỉ còn là những nụ
cười thật nhẹ, có chút gượng gạo nữa. Rồi lên phòng ăn sĩ quan, húp từng muỗng
cháo nóng mà nhân viên nhà bếp mang lại. - đây, cũng lại cái không khí hơi
thiếu tự nhiên dù ai cũng cố dấu kín tâm sự chính mình. Chỉ biết cố gắng hòa
lẫn vào đám đông để khỏi đối diện với chính mình với bao bất trắc của sáng
ngày. Rồi tôi lên tiếng, cố đùa:
- Đây có thể là tô cháo cuối cùng và vừa rồi có thể là
ly cà phê cuối cùng.
Nói xong câu này, không ai cười, nhưng trong tôi bỗng
biến đổi. Một nỗi trống vắng, xa lạ xâm chiếm tâm hồn.Như không còn là tôi,
không còn cần thiết gì nữa. Không còn ham muốn điều gì, kể cả sự sống. Không
còn sợ hãi điều gì, kể cả cái chết. Không luyến thương vương vấn ai, kể cả mẹ
già. Không thèm ăn, không thèm hút. Không thèm gì hết.
Đúng 7 giờ, còi nhiệm sở tác chiến vang lên dồn dập,
đồng thời ở mọi góc phòng, tiếng loa phóng thanh liên tục phát ra từ đài chỉ
huy: "Tất cả mọi người vào nhiệm sở tác chiến". Tôi chạy vội về phòng
ngủ, lấy một gói thuốc Bastos bỏ túi, mang áo phao, đội nón sắt chạy lên đài
chỉ huy. Hạm trưởng đứng đó, cũng áo phao nón sắt, và ống nhòm đeo trên cổ đang
cầm lên để quan sát tàu địch. Sau đuôi HQ16 là HQ10 đang chạy
theo đội hình hàng dọc với 2 máy tiến 1. Về phía nam, hai chiếc tàu Trung Cộng
có số hiệu 300 đang ở mặt bắc của đảo Quang Hòa, Duy Mộng và ở phía tây nam là
2 chiếc số hiệu 200 có lẽ mới nhập vùng đêm qua. Cả bốn chiến hạm địch cùng
chạy chậm gần hai đảo, làm thành một vòng bán nguyệt. Xa hơn về phía nam là HQ4
và HQ5 giờ này có lẽ cùng đang trong tình trạng chuẩn bị tác chiến. Trên
HQ16, mọi người đang lục tục chạy vào vị trí của mình. Trước mũi, nắp đậy
của lỗ quan sát của khẩu pháo 127 ly bật tung và ngoi lên cái đầu của Trung
uý Ất trưởng khẩu. Ất đội một nón sắt rộng vành có trang bị ống nghe nội bộ
úp vào lỗ tai. Trên đó một tầng là khẩu 40 ly đôi dang được mở bọc bạt, nòng
bắt đầu quay phải trái, lên xuống để điều chỉnh. Trong hai nòng, 4 kẹp đạn sáng
chói đang chồng thành 2 cặp song song nhau. Cùng tầng đó, ngay hai bên hông đài
chỉ huy là 2 khẩu 20 ly đôi cũng đang được lắp đạn. Sau đó, tiếng báo cáo từ
phòng CIC của Đại uý Nam vang lên từng chặp. Vừa lên đài chỉ huy, tôi
nhận định vị trí rồi làm cái "point" đầu tiên của một sĩ quan hải
hành, sau đó kiểm tra lại sổ hải hành, đọc lướt qua những diễn biến được ghi
lại trong đêm. Một hạ sĩ quan giám lộ đang cầm bút sẵn sàng ghi chép vào đó những
mệnh lệnh của Hạm trưởng, những báo cáo của phòng CIC, phòng truyền tin cùng
những diễn biến quan trọng xảy ra. Công việc bận rộn với những hoạt cảnh trước
mắt đã hoàn toàn xóa tan trong tôi cái cảm giác trống không trong phòng ăn, nỗi
lo sợ và cái lạnh trong phòng họp. Cũng như mọi người, tôi hòa nhập vào nhiệm
vụ, vào đám đông, bỏ quên mình để trở thành một mắt xích của một guồng máy đang
quay đều.
Trong vòng hơn một tiếng rưỡi đồng hồ sau đó, hầu như
không có gì xảy ra cho chiến hạm. Những báo cáo, chỉ thị cứ tiếp tục được
truyền đến và đi. Tiếng rè rè của máy truyền tin PCR 25 đặt bên cạnh thỉnh
thỏang lại phát ra tiếng nói của những giới chức thẩm quyền từ các chiến hạm
bạn. Cả hai phân đội cũng đang chạy vòng vòng, chầm chậm quanh khu vực mà mình
trấn thủ, trong khi hai phân đội của địch cũng như đang được chia ra để thành
hình từng cặp đối diện. Riêng tôi, cứ 15 phút lại làm một "point",
kiểm soát sơ qua về những gì mà hạ sĩ quan giám lộ đã ghi trong sổ hải hành.
Khoảng hơn 9 giờ, HQ16 nhận được lệnh cùng với HQ10
yểm trợ cho HQ4 đổ bộ người nhái lên đảo (tôi không nhớ là đảo nào) bằng
cách cả hai chiếc chúng tôi làm một cuộc diễn hành hàng dọc nhắm thẳng hai đảo
tiến tới làm như thể chúng tôi sẵn sàng áp sát đảo để đổ bộ hay tấn công gì đó.
Có lẽ đây là cái kế "dương đông kích tây" của Tư lệnh lực lượng, nhờ
đó phân tán được chiến hạm địch và có thể tạo sự chú ý của hai chiến hạm địch
phía dưới để thừa cơ HQ4 đổ bộ. Lệnh thì phải thi hành, nhưng riêng tôi
nhận xét thì kế này không thành công bao nhiêu vì hai chiến hạm số hiệu 200 của
Trung Cộng ở mặt tây nam sẽ không cần được điều động lên mặt bắc vì với lực
lượng tương đương, 2 chiếc số hiệu 300 cũng đủ cầm chân chúng tôi. Tuy nhiên
tôi không rõ bằng cách nào mà sau đó khoảng hơn 30 phút, HQ4 báo cáo là đã
đổ bộ xong toán người nhái lên đảo. Và từ đó, trên tần số thường lệ của máy
PRC 25 lại vang lên thêm tiếng của một đơn vị bạn đang nằm ngay trong lòng
địch. Tôi thấy rằng việc đổ bộ thành công này quả là một kỳ công của HQ4 bởi vì
nó diễn ra trước mũi của hai chiến hạm Trung Cộng mà chỉ bằng những chiếc xuồng
đổ bộ được chèo bằng tay. - phía trên, khi chúng tôi nhận được lệnh tiến về
phiá đảo, HQ10 hình như có vẻ chần chừ vì khoảng cách giữa chúng tôi
ngày càng xa và Hạm Trưởng HQ16 đã nhiều lần thúc dục HQ10 phải
chạy sát nhau hơn.
Khi chúng tôi chạy được nửa đường, hai chiến hạm Trung
Cộng bắt đầu tăng tốc chạy ra ngăn cản. Lúc đó là gần 10 giờ. Chúng chạy thật
nhanh đến phía chúng tôi rồi lại quay mũi, chạy hàng dọc ngang qua trước mũi
tàu HQ16 để làm thành cái đầu của chữ T mà chúng tôi là thân chữ T - Và mọi
chuyện xảy ra lại giống chiều hôm qua nếu như HQ16 không ngoan cố cứ tiếp tục
thẳng tiến. Có lẽ thấy rằng khó có thể ngăn cản nổi chúng tôi mà không xảy ra
một vụ đụng tàu bất ngờ và nguy hiểm, một chiếc đã chủ động chạy ra xa hơn rồi
quay lại với một vòng rộng hơn để mũi tàu không băng ngang trước mũi tàu HQ16
mà lại đâm thẳng vào hông phải chúng tôi với một góc 90 độ. Lúc đó tôi đang
đứng ngay la bàn hữu hạm, tầng dưới là cabin Hạm trưởng, phía ngoài của cabin
là khẩu đại bác 20 ly đôi với hai nồi đạn đang nằm trên giá và nòng súng thì
lúc nào cũng chĩa thẳng vào tàu địch. Tàu địch lúc đó đang tiến về phía HQ16
với vận tốc 15 gút và vận tốc của HQ16 chỉ khoảng 6.7 gút. Nhìn chiếc
tàu địch đang sừng sững tiến về phía mình, nhắm đúng vào chỗ mình đang đứng,
trong tôi không còn là nỗi lo sợ, không còn là sự hoảng hốt, chỉ thấy như thân
mình bay bổng lên, nhẹ tênh và các phản ứng hầu như chết lặng đi một lúc. Tôi
ghì mạnh hai tay, nắm vào thành tàu, cố giữ vững thế đứng và tạo sự bình thản
trên khuôn mặt như một kẻ bàng quang đứng nhìn. Khi còn cách nhau khoảng 20
mét, tôi nghe tiếng Hạm trưởng: "Lấy hết tay lái bên trái". và tôi
cũng đoán rằng tàu địch cũng đang lấy hết tay laí bên phải, nên khi hai chiếc
chạm nhau, mũi tàu địch đâm vào một góc rất nhỏ, quệt dài theo hông bên phải
cho đến mũi tàu. Hai chiếc song song chạy như đang cập vào nhau và tôi có cảm
giác nếu như tôi đưa bàn tay ra là có thể với tới một bàn tay cũng đưa ra từ
bên tàu địch. Mũi nhọn của chiếc neo hữu hạm HQ16 móc vào bè đào thoát của địch
làm nó rơi xuống biển. Tôi nghe một cái rùng mình nhẹ của HQ16 nhưng tàu
địch thì chòng chành như có sóng lớn làm một tên - hình như sĩ quan - té
nghiêng vào thành tàu, còn một tên đầu bếp té ngửa đưa bốn vó lên trời khi đang
mò ra boong chính. Hai tay y lúc đó đang bưng một rổ cà chua - Cùng với người,
những trái cà chua đỏ mọng rớt xuống lăn long lóc trên sàn. Khi hai tàu hoàn
toàn tách nhau, không hiểu sao tên sĩ quan bị té lại rút súng ngắn ra chĩa lên
trời bắn một phát. Cái đụng chạm bất thần và ngắn ngủi dường như làm cả tàu ngơ
ngẩn bàng hoàng như vừa trải qua một cơn ác mộng - Chúng tôi cũng không hiểu
sao các xạ thủ vẫn bình thản nhìn sự việc xảy ra mà không hoảng hốt bóp cò. Chỉ
một sự sai sót xảy ra, cả một chiến hạm địch sẽ hứng nguyên cả nhiều tràng đại
bác 20 ly, mà không những cuộc chiến mở màn một cách đẫm máu và chúng tôi ở đài
chỉ huy chỉ cách có 2 mét cũng không tránh được thương vong.
Biến cố qua đi, tôi mới định thần và trở về với công
việc. Sau đó HQ16 và HQ10 quay mũi trở về hướng bắc vì đã nhận được tin
toán đổ bộ người nhái đã hoàn toàn xâm nhập đảo qua máy CR 25. Những tiếng báo
cáo của họ về tình hình trên đảo nghe rõ mồn một. Đại khái là Trung Cộng đã xây
dựng trên đó những công sự phòng thủ kiên cố và một đài quan sát, được bảo vệ
bởi gần một tiểu đoàn quân trú đóng. Toán đổ bộ cũng yêu cầu Tư lệnh LLDN cho
phép được thay đổi kế hoạch để họ có thể xử dụng hỏa lực để chiếm đảo. Họ cũng
e sợ rằng việc tránh xử dụng hỏa lực có thể làm cho họ hoàn toàn bị bắt sống
bởi một quân số địch vượt trội khi họ tiến vào. Cho đến lúc này tình thế đã có
vẻ gay go vì mục đích của cuộc hành quân sẽ không đạt được nếu không nổ súng.
Nhưng nếu thế thì mọi chiến hạm đều phải nhập cuộc và một cuộc hải chiến khốc
liệt sẽ mở màn, rất trái với tinh thần của lệnh hành quân. Vả chăng, việc khai
chiến sẽ không nằm trong thẩm quyền của một vị Tư lệnh chiến dịch, cũng không
hẳn ở một vị Đô Đốc Tư lệnh Hải quân, mà chắc chắn phải xuất phát từ vị Tư lệnh
tối cao của quân đội.
Vậy mà, chỉ chừng chưa đầy 10 phút sau đó, chúng tôi
nhận được lệnh của vị Tư lệnh / LLĐN yêu cầu HQ16 và HQ10 chuẩn bị để
tác xạ lên đảo để yểm trợ cho toán người nhái đang bắt đầu tiến vào. Trong khi
đó HQ4 và HQ5 sẽ tác xạ trực tiếp vào tàu địch. Tôi nhận thấy rằng hiện
tại nếu cuộc chiến xảy ra, tình thế đã chia làm 2 khu vực rõ rệt. HQ16 và
HQ10 đang ở mặt tây Bắc của đảo, đang đối đầu với hai chiến hạm địch hiệu
số 300. - mặt tây nam, HQ4 và HQ5 trực diện với hai chiến hạm khác.
Khoảng cách giữa 4 chiến hạm VNCH có lẽ còn xa hơn 10 hải lý. Nếu chúng tôi, HQ16
và HQ10, chỉ chú tâm bắn lên đảo, hai chiến hạm 300 sẽ dễ dàng làm thịt
chúng tôi. Và chúng tôi sẽ trở thành tấm bia cho chúng tập bắn. Với khoảng cách
như vậy HQ4 và HQ5 đâu đủ sức để yểm trợ mình, đó là chưa kể họ còn phải
lo liệu kẻ thù trước mặt, chưa chắc đã làm gì được chúng. Ngoài ra, còn cần
phải có một tầm nhìn rộng rãi hơn để thấy rằng, với một trận chiến giữa biển
khơi, ai làm chủ mặt biển, kẻ đó sẽ làm chủ đất liền. Sá gì một tiểu đoàn quân
trú đóng chỉ được trang bị súng cầm tay nếu 4 cái gai trước mắt đã được thanh
toán xong? Ý nghĩ đó của tôi tức thời được trình bày lên Hạm trưởng và ông rất
đồng ý. Sau đó ông trao đổi với Đại tá Ngạc để xin cho HQ16 và HQ10 được
đánh phủ đầu 2 chiến hạm địch. Ông không đồng ý lúc đầu và tôi vì bận công việc
không nghe rõ ý kiến phản bác của ông. Hạm trưởng vẫn không chịu và cuộc mặc cả
dài đến hơn 5 phút rồi đi đến một biện pháp dung hòa. HQ10 tác xạ lên
đảo và HQ16 sẽ tác xạ yểm trợ, bắn vào chiếc nào gần nhất. Đây rõ ràng
chưa phải là giải pháp tối ưu nhưng trước mệnh lệnh của cấp trên, chúng tôi
phải thi hành. Và, tiếng súng của HQ10 trở thành tiếng súng lệnh để các
chiến hạm bắt đầu cuộc hải chiến.
Để có thể dễ dàng nổ súng, HQ10 từ sau lái tách
qua bên phải để hai chiếc chạy song song hướng mũi về 2 đảo, nếu khi nào cảm
thấy thuận tiện là HQ10 sẽ khai hỏa. Trong khi đó, toán người nhái trên
đảo đã báo cáo là có xung đột với địch và sau nhiều lần yêu cầu cho nổ súng, họ
báo cáo là có một sĩ quan người nhái bị giết. Không thể chần chờ được nữa, Tư
lệnh lực lượng hối thúc HQ 10 nổ súng ngay.
Tất cả mọi người trên đài chỉ huy đều tập trung chú ý
vào HQ10 chờ lệnh khai hỏa và tất cả các ổ trọng pháo trước mũi cũng như
bên hữu hạm đều nhắm vào chiến hạm địch gần nhất, cách chúng tôi khoảng hơn 2
hải lý. Sau một tiếng nổ ầm từ khẩu 76.2 ly của HQ10 và tiếng la của Hạm
trưởng "tác xạ", cả chiến hạm như bị giật lùi vì tiếng khai hỏa của
đại pháo 127 ly. Những người trên đài chỉ huy chú tâm đến nỗi ai cũng có cảm
tưởng mình nhìn thấy được đường đi của viên đại bác đầu tiên. Rồi tiếng nổ dồn
dập của khẩu đại bác 40 ly đôi trước mũi và khẩu 40 ly đơn sau lái hữu hạm,
cùng với tiếng nổ liên hồi của đại bác 20 ly làm thành một hòa âm khó tả. Khói
thuốc súng từ trước mũi, sau lái, boong trên phía sau và ngay đài chỉ huy phía
dưới bay lên làm mờ cả một vùng trời trên chiến hạm. Ngửi mùi khói đang bay ấy,
con người mình như được kích thích bởi một cái gì, hăng hái hơn, nhanh nhạy hơn,
can đảm hơn. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc vang rền khắp chốn cũng tạo thêm
một niềm tin mới, niềm tin của sự chiến thắng.
Từ lỗ tròn của ổ đại bác 127 ly trước mũi, Trung uý
Ất đã đứng hẳn người lên, nhô cả thân mình lên trên ụ súng để tận mắt chứng
kiến kết quả của những viên đạn đang nổ, điều chỉnh những sai sót. Tiếng oang
oang thường ngày của Ất được dịp phát ra từ đó mà ở đài chỉ huy chúng tôi nghe
được: "Lên hai độ", "xuống một độ", "bên phải",
"bên trái một chút". Cả đài chỉ huy cùng chăm chú theo dõi từng viên
đại pháo nổ xung quanh tàu địch, bỗng ồ lên như ong vỡ tổ: "Trúng
rồi" Tôi nhìn lên, chếch về phía bên phải mũi tàu, một chiến hạm địch đang
bốc khói. Có lẽ đó là khói của viên đạn nổ tung ngay đài chỉ huy vì sau đó,
dường như hoạt động của tàu này có phần chậm lại - Tôi nhìn ra xung quanh chiến
hạm mình, hàng trăm viên đạn nổ lõm chỏm giữa nước. Phía trước, phía sau, tả
hạm, hữu hạm. Đạn nổ đều khắp làm tôi mường tượng như đang ở giữa một trận mưa
đá khổng lồ. Nhưng sao chiến hạm vẫn bình yên vô sự như có một sự che chở
thiêng liêng nào? Tôi bỗng nhìn lại về phía trước, khẩu đại bác 40 ly đôi đang
chĩa mũi lên trời mà nhả đạn liên tiếp. Tôi chỉ tay cho Hạm trưởng, rồi như một
phản ứng kỳ diệu, tôi chạy xuống hai lần cầu thang ngoài trời, hấp tấp leo lên
cạnh xạ thủ chiều cao. Tôi dựng đầu anh ta dậy, không nói gì cả, chỉ cho anh ta
thấy tàu địch, bắt hạ mũi súng xuống và nhìn thẳng vào lỗ nhắm. Anh ta quay lại
nhìn tôi rồi làm theo lệnh. Tôi an tâm chạy ngựơc trở lại đài chỉ huy giữa lúc cuộc
bắn giết đang diễn ra sôi động và khốc liệt giữa tiếng pháo nổ ầm ầm. Trên đó,
ai vẫn làm công việc của người đó, một cách bình thản. Bỗng tôi nhìn thấy HQ10
đang nằm bình yên giữa biển khơi cách HQ16 khoảng một hải lý bên hữu
hạm. Nhấp nhô giữa biển là một vài đốm nhỏ như những tấm ván nổi lềnh bềnh.
Chúng tôi đoán rằng HQ10 đã đào thoát nhưng không rõ lý do vì không nghe
tiếng báo cáo nào về tình trạng của tàu. Chỉ biết thế mà không còn thì giờ thắc
mắc bởi sự chú tâm độc nhất của mình bây giờ là chiến đấu trong khi không còn
khả năng nào để cứu vớt đồng đội. Rồi giọng anh truyền tin nội bộ báo cáo:
Trình Hạm trưởng, kho đạn 127 ly trước mũi bị thủng một lỗ.
- Nước có vào kho không?
Anh liên lạc lặp lại câu hỏi cho sân
mũi, rồi trả lời:
- Có, nhưng ít thôi. Chỉ khi nào mũi tàu
chúi xuống thì nước có vào chút đỉnh.
- Cô lập phòng đó lại.
Không biết bao lâu sau đó, giữa khói đạn
mịt mù, tiếng báo cáo từ hầm máy vang lên qua máy phóng thanh, có vẻ hốt hoảng:
- Hầm máy tả hạm bị thủng một lỗ lớn,
nước vào rất mạnh. Tiếng Hạm Trưởng:
- Còn gì nữa không, báo cáo.
- Một máy điện bị phá huỷ, Trung sĩ điện
khí Xuân bị trọng thương.
- Gọi y tá đem lên băng bó gấp.
Ngừng một lát:
- Toàn hầm máy chỗ nào cũng bị điện giật
cả. Tất cả đều đã rời khỏi hầm... báo cáo Hạm trưởng, tàu sắp chìm.
Nghe lời báo cáo sau cùng, cả đài chỉ huy lặng đi một
phút, và cùng nhận thấy tàu hơi nghiêng về phía tả hạm, rồi tình trạng nghiêng
càng ngày càng lớn. Hạm Trưởng ra lệnh lấy hết tay lái qua trái, làm một vòng
để quay ngược tàu chạy về hướng bắc để rời xa vùng chiến trận. Các ổ trọng pháo
40 ly sau lái bây giờ được tăng cường hoạt động ở cả hai phía. Đồng thời, ông
chụp vội lấy micro và ra lệnh: "Tất cả chiến hạm vào nhiệm sở đào
thoát:. Ông lặp lại 3, 4 lần câu nói rồi đến bên tay lái, điều khiển tàu
thay nhân viên lái đi vào nhiệm sở của mình - Tiếng chân rầm rập mọi nơi vang
lên có vẻ nhanh hơn lúc có còi nhiệm sở tác chiến buổi sáng. Đài chỉ huy trong
một phút bỗng vắng tanh vắng ngắt. Tôi chợt nhớ lại số tiền 100.000 đồng của bà
mợ ở Đà Nẵng nhờ đem vào cho chú em đang theo học đại học ở Sài Gòn. Tôi chạy
thật vội về phòng, nhưng đừơng cầu thang tối thui. Tàu lại nghiêng khá lớn nên
việc di chuyển càng khó khăn thêm. Mò mẫm số tiền để trong tủ không khóa, lấy
thêm 1 gói Bastos, tất cả đút váo áo phía dưới bụng, tôi chạy ngược lên đài chỉ
huy mà lòng bỗng thấy sợ vì sự dại dột của mình vì tôi đang liên tưởng đến cái
chết của một người bạn cùng khóa trên HQ 225 ở Năm Căn vào năm nào.
Trên đó, Hạm trưởng đang nặng nhọc lái tàu, bên cạnh là
Đoàn Viết Ất. Cả hai không nói gì. Nhìn cái dáng cao gầy của ông đứng trước
tay lái trong khung cảnh vắng lặng của đài chỉ huy, tôi như cảm thấy hết nỗi cô
đơn của ông, của một Hạm trưởng đang trong tình trạng tuyệt vọng; nhưng trên
nét mặt phong trần và đôi mắt đăm chiêu vẫn chứng tỏ nét kiêu hùng. Dáng đứng
chơ vơ đó gây cho tôi một ấn tượng rõ nét và cho đến bây giờ, trong tôi vẫn dấy
lên một niềm đồng cảm, mến phục. Đó là dáng đứng mang đầy vẻ hãnh diện một cách
đau thương, ngạo nghễ một cách lưu luyến, và chấp nhận một cách đàng hoàng. Đó
là dáng đứng mang vẻ tự trọng và kiêu hãnh của một Hạm trưởng, của một sĩ quan
ngành chỉ huy đã được vinh dự mang trên ngực bánh xe vận chuyển với hàng chữ:
"Matre post deum" (Hàng chữ này có thể viết sai, ai biết xin sửa
lại); đã được tôi luyện từ quân trường, từ 10 năm lặn lộn trên biển cả, từ hải
quy và tập quán hải quân. Nó đã thấm vào tim, vào óc, vào máu, vào thịt, vào
từng tế bào. Nó luân lưu trong huyết quản, nó hằn sâu trong tiềm thức, nó trộn
lẫn trong ý nghĩ và cuối cùng thể hiện trong dáng đứng chơ vơ, cô độc nhưng
vững chãi như bức tượng đồng.
Từ dưới cầu thang, bên trái bỗng chui lên một sĩ quan,
Đại uý Hiệp, cơ khí trưởng của chiến hạm. Ông chào Hạm trưởng rồi nói:
- Tại sao Hạm trưởng lại cho nhiệm sở đào thoát? Hầm
máy tả hạm bị ngập nhưng tôi đã đích thân khóa kín, tàu vẫn còn chạy được mặc
dù là chỉ một chân.
- Thì chính anh cho người báo cáo là tàu sắp chìm!
- Đâu có, tôi chỉ nói là nước vào rất nhanh và tình trạng rất nguy hiểm. Đó là vì điện giật lung tung làm toàn nhân viên hầm máy phải chạy tán loạn.
- Thì chính anh cho người báo cáo là tàu sắp chìm!
- Đâu có, tôi chỉ nói là nước vào rất nhanh và tình trạng rất nguy hiểm. Đó là vì điện giật lung tung làm toàn nhân viên hầm máy phải chạy tán loạn.
Đôi mắt Hạm Trưởng sáng lên, nét vui mừng thể hiện qua
từng lời khi ông nói vào micro: "Giải tán nhiệm sở đào thoát, giải tán
nhiệm sở đào thoát".
Cho đến bấy giờ, tàu đã chạy về đến gần đảo Pattle,
cách chiến hạm địch chừng 5, 6 hải lý và chúng cũng không đuổi theo. Tôi nhìn
lại vùng chiến trận một lần cuối khi cảm thấy tàu đã khá an toàn. Tít mù xa, HQ4
và HQ5 đang là hai nét mờ mờ ẩn hiện dưới làn hơi nước bốc lên do cái nóng
của mặt trời làm nhòe nhoẹt hình ảnh. Có lẽ họ đã rời xa tàu địch từ khá lâu
rồi. Gần hơn là HQ10 vẫn bình yên nằm như trong tình trạng thả trôi trong
một vùng nước lặng gió, và bên cạnh, một chiếc tàu Trung Cộng cũng trong tình
trạng tương tự nằm song song bên nhau như đôi bạn đời tri kỷ chưa có một lần
thù hận. Nghĩa là nhân viên của cả hai chiếc đã đào thoát khỏi tàu hay một số
khá đông đã chết.
HQ 16 cũng đang trong tình trạng bi đát. Vì
một hầm máy chủ lực ở tả hạm đã bị ngập làm bất khiển dụng 2 máy chính, hai máy
điện độc nhất còn lại, và cũng một máy ép gió độc nhất còn lại. Tàu đã mất điện
hoàn toàn. Cả chiếc tàu trở thành một hầm tối như trong một hang động hoang sơ
nào đó. Thỉnh thoảng một vài tia sáng của đèn pin quét qua quét lại dò đường
của một nhân viên đang đi làm việc. Radar ngừng chạy, mất liên lạc truyền tin
với các đơn vị bạn làm cho HQ4, HQ5 và Bộ Tư lệnh Hải quân vùng I cứ ngỡ
rằng HQ16 cũng đã đào thoát hay chìm sâu dưới lòng đại dương. La bàn
điện mất điện nên tàu phải xử dụng la bàn từ như một chiến thuyền nào đó có từ
thế kỷ thứ 18 về trước. Khó khăn nhất cho tàu vẫn là tay lái điện. Tàu hiện tại
chỉ chạy với một chân nên nếu có đủ tay lái điện, việc lái tàu cũng đã là một
khó khăn nhất là khi vượt qua giữa vùng san hô bao bọc quanh đảo. Vậy mà bánh
lái tại đài chỉ huy không hoạt động nên chiến hạm phải điều động những nhân
viên to con khỏe mạnh xuống hầm bánh lái để trực tiếp quay bằng tay cái bánh
lái khổng lồ. Thế cho nên đường đi của tàu không phải là một đường thẳng, nhưng
là một đường chữ chi ngoằn nghèo như hình con rắn. Nhìn dãy bọt nước uốn lượn
phía sau đuôi tàu, người giàu tưởng tượng sẽ ví chiếc tàu như một vũ nữ đang
uốn éo thân mình trong một bản boléro lả lướt. Một tin buồn chợt đến khi chúng
tôi ở đài chỉ huy đang chăm chú theo dõi Hạm trưởng đích thân lái tàu rời khỏi
eo biển nguy hiểm và các nhân viên cơ điện khí của Đại uý Hiệp đang tận
tình sửa chữa 1 trong 2 máy điện của hầm máy hữu hạm: Đó là tin Trung sĩ điện
khí Xuân từ trần vì cánh tay phải đứt mất làm mất máu quá nhiều. Anh đã
được Trung uý Bính và các y tá vuốt mắt cùng đọc kinh cầu nguyện cho anh
dù không rõ anh theo tôn giáo nào. Trung sĩ Xuân là chiến sĩ đầu tiên của
HQ16 hy sinh cho sự độc lập và sự bảo vệ chủ quyền của tổ quốc. Đây là niềm
đau chung cho cả tàu nhưng có lẽ niềm ân hận nhất cho cả tàu là việc bỏ lại 15
đồng đội trên đảo Robert mà không có cách gì đưa về được. Đó không phải vì
Trung Cộng đánh đàng sau mà chỉ vì tàu không thể ngừng được do việc máy ép gió
hữu hạm hư từ lâu mà máy bên tả hạm thì đang uống đầy nước. Nếu ngừng, tàu sẽ
ngừng hẳn và sẽ làm mồi cho Trung Cộng vì không còn đủ gió để khởi động. Thế
cho nên sau khi lái ra khỏi vùng biển của Hoàng Sa và giao cho các sĩ quan
trưởng phiên tiếp tục tiến về đất liền, Hạm trưởng đã dùng máy PRC 25 - Máy
truyền tin độc nhất còn hoạt động. - để liên lạc và nói chuyện với Trung úy
Liêm trên đảo. Sau khi thông báo tình hình bất khả kháng của chiến hạm, ông
đã động viên anh em hãy dùng bè đào thoát, cố gắng vượt ra khỏi vùng trước khi
Trung Cộng tới chiếm, đồng thời yêu cầu mọi người thông cảm cho sự bất lực của
ông. Giữa hai sự chọn lựa; ông phải đưa cả trăm người trở về an toàn. Càng nói,
trông ông càng đau đớn và khi nhìn đôi mắt đỏ hoe của ông, chúng tôi đã vội
quay đi để cầm giữ những giọt nước mắt khỏi trào ra hai bên khóe.
Đến khoảng 5 giờ chiều, một máy điện đã được sửa chữa
xong. Cả tàu vỗ tay reo hò khi ánh sáng tràn ngập chiến hạm, như ánh sáng đã
lấp lóe trong lòng chúng tôi một hy vọng được trở về khi tàu vượt qua khỏi eo
biển nguy hiểm đó. Tin tức HQ16 xuất hiện qua máy truyền tin cũng đã
được toàn Bộ Tư lệnh Hải quân vùng I Duyên hải đón chào như một chiến thắng.
Đào Dân
*****
Giỗ Trận Hoàng Sa (19-01-1974)
Bài Văn Tế Anh Hùng Tử Sĩ trận hải chiến Hoàng Sa (19-01-1974)
của Trần quan Niệm và Phạm Tứ Lang (Hoa Kỳ)
***
Đây Hoàng Sa. Đây Hoàng Sa
Trận hải chiến lẫy lừng trong lịch sử
Bảo vệ quốc gia - Vẹn toàn lãnh thổ
Vinh quang thay - Hải lực Việt Nam Cộng
Hoà oai hùng
Giữa biển khơi, bao chiến sĩ hy sinh
Máu tô thắm dệt thành trang hùng sử
Ba mươi bốn năm xưa
Một ngày rực lửa
Trung Cộng ngang tàng
Xua chiến hạm tính nuốt trôi đảo Việt
Nào Soái Hạm, Trục Lôi, Hộ Tống
Nào Phi Tiễn Đĩnh, nào Hải Vận Hạm chở
quân
Tiến ầm ầm, dậy sóng biển Đông
Hải đội xung kích Hải Quân ta
Trực chỉ Hoàng Sa
Quần đảo hoang sơ, ẩn hiện khói sương mờ
Nằm án ngữ nơi bao lơn nước Việt
Lãnh hải xa, bao đời ông cha ta trấn thủ
Bia đá rành rành, văn bản vẫn còn ghi
Thế mà nay, quân xâm lược lăm le
Loài cuồng khấu, ôm giấc mơ Nam tiến
Ta sẵn sàng nghênh chiến
Dù lực lượng lệch chênh
Dàn đội hình quần thảo một phen
Quyết không hổ danh
Hậu duệ Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo
Lực lượng ta:
Trần Khánh Dư (Khu Trục Hạm)
Trần Bình Trọng, Lý Thường Kiệt, (Tuần
Dương Hạm)
Nhựt Tảo, (Hộ Tống Hạm) oai phong
Biển động sóng cuồng
Súng gầm khạc lửa
Chiến hạm địch quay cuồng bốc cháy
Bộ Tham Mưu tan xác banh thây
Đô Đốc, Tá, Úy, Hạ Sĩ Quan, Đoàn Viên
Thương vong vô số kể
Địch cố thoát vòng vây
Điên cuồng chống trả
Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo trúng pháo địch
Lửa cháy bùng thượng từng kiến trúc
Nhiều ổ súng ngả nghiêng
Đài chỉ huy tan nát
Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà (1)
Dáng dấp thư sinh - Chỉ huy quyết liệt
Dạn dầy hải nghiệp - Sói biển phong
sương
Bị trọng thương, quyết theo tầu vào lòng
biển
Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí
Trọng thương nhưng tinh thần bất khuất
Xin được chết theo tầu
Hạm trưởng lắc đầu:
''Anh phải đi
Xuồng đào thoát cần một vị chỉ huy
Hãy để một mình tôi ở lại''
Ôi khẳng khái
Những anh hùng biển cả
Chiến sĩ Hải Quân oai hùng bắn tới viên
đạn cuối
Trước khi chìm vào lòng biển Mẹ mênh
mông
32 Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Đoàn Viên
đã vị quốc vong thân.
26 mất tích
Ngày hôm nay, 19 tháng Giêng năm 2008
Nhớ ngày các anh em đã xả thân vì Tổ
Quốc
Chúng tôi, bạn bè cùng trang lứa
Quân chủng Hải Quân, tình chiến hữu năm
xưa
Trước bàn thờ bài vị trang nghiêm
Ba mươi bốn năm ngày giỗ trận
Thắp nén nhang thơm tưởng niệm
Dâng ly rượu lễ chí thành
Cúi
mong các bạn hiển linh
Hồn
thiêng về đây chứng giám
Xin
được nghiêng mình vinh danh
những
anh linh tử sĩ oai hùng:
1) Hải Quân Trung Tá Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà (1)
2) Hải Quân Thiếu Tá Hạm Phó Nguyễn Thành Trí
3) Hải Quân Trung Úy Vũ Văn Bang
4) Trung Úy Cơ Khí Ngô Chí Thành
5) Trung Úy Cơ Khí Hàng Hải Thương Thuyền Huỳnh Duy Thạch
6) Hải Quân Trung Úy Vũ Đình Huân
7) Hải Quân Trung Úy Nguyễn Văn Đông
8) Hải Quân Thiếu Úy Lê Văn Đơn
9) Một Hải Quân Thiếu Úy không rõ tên
10)
Hải Quân Thiếu Úy
Nguyễn Phúc Xạ
11)
Thượng Sĩ Quản Nội
Trưởng Châu
12)
Thượng Sĩ Vận
Chuyển Lễ
13)
Trung Sĩ Cơ Khí
Nguyễn Tấn Sĩ
14)
Trung Sĩ Thám Xuất
Lê Anh Dũng
15)
Trung sĩ Điện Tử
Trung
16)
Trung Sĩ Giám Lộ
Vương Thương
17)
Trung Sĩ Quản Kho
Tuấn
18)
Trung Sĩ Trọng Pháo
Nam
19)
Hạ sĩ Vận Chuyển Lê
Văn Tây
20)
Hạ Sĩ Trọng Pháo
Trứ
21)
Hạ sĩ Trọng Pháo
Hùng
22)
Hạ sĩ Giám Lộ Ngô
Văn Ơn
23)
Hạ sĩ Vận Chuyển
Trứ
24)
Hạ Sĩ Nguyễn Thành
Danh
25)
Hạ Sĩ Quản Kho
Nguyễn Văn Duyên
26)
Hạ sĩ Đỗ Văn Long
27)
Thủy thủ Trọng Pháo
Đức
28)
Thủy thủ Điện Tử
Thanh
29)
Thủy thủ Trọng Pháo
Thi Văn Sinh
30)
Thủy thủ Trọng Pháo
Mến
31)
Thủy thủ Cơ Khí
Đinh Hoàng Mai
Và hai mươi sáu chiến hữu Hải
Quân mất tích
Nhớ
chư linh xưa
Tung
hoành dọc ngang - Biển Đông vùng vẫy
Lướt
sóng kình ngư - Giữ gìn lãnh hải
Hỡi ơi
Một
ngày biển Đông sóng dậy
Hải
âu gẫy cánh trùng dương
Các
anh đi
Để
nhớ để thương
Cho
Mẹ, cho Cha, cho vợ, cho con, cho anh. cho em
Cho
bạn bè các cấp
Gương
tuẫn quốc, muôn đời ghi sử sách
Lòng
hy sinh, sáng mãi đến ngàn thu
Trước
bàn thờ
Đèn
nến lung linh
Hương
trầm ngào ngạt
Hồn
linh thiêng về chứng giám lòng thành
Con
Rồng cháu Lạc hy sinh
Xứng
danh Liệt Tổ, Liệt Tông
Tổ
Quốc muôn đời ghi nhớ
Cung
duy - Thượng hưởng
(Trần Quán Niệm và Phạm Tứ
Lang - (Hoa Kỳ)
(Phạm Tứ Lang cựu học sinh Chu
Văn An)
Chú thích
(1) cố HQ Trung Tá Ngụy Văn
Thà tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, khóa 12 Đệ nhất Song Ngư - Hộ
Tống Hạm Nhựt Tảo HQ 10 bị chìm, HQ 4, HQ 5, HQ 16 hư hại nhẹ, sau khi sửa chữa
đã hoạt động trở lại.
************************************************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét