Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012

45-54, BÀI SỐ 9 - Tô Vũ


 45 - 54, CHÍN NĂM KHÓI LỬA
                                                                     tôvũ
Bài số 9
*



Bản Tuyên Ngôn Chung

Bản Tuyên Ngôn Chung đề ngày 21-7-54 của các phái đoàn dự Hội nghị Genève về thoả hiệp ngưng bắn
1- Hội nghị ghi nhận những thoả hiệp chấm dứt chiến sự ở Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Sẽ tổ chức việc quốc tế kiểm soát và giám thị sự thi hành những điều khoản trong đó.
2- Hội nghị vui mừng thấy chiến sự được chấm dứt ở Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao. Hội nghị tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản ghi trong bản Tuyên ngôn chung này và trong những Thoả hiệp ngưng chiến sẽ cho phép ba nước liên hệ từ nay trở đi có thể đảm nhiệm được vai tuồng của họ một cách hoàn toàn độc lập và tự chủ trong Cộng đồng Hoà bình thế giới.
3- Hội nghị ghi nhận những lời tuyên bố của các chính phủ Cao Miên và Ai Lao và ý chí chấp nhận những biện pháp cho phép tất cả các công dân được dự phần vào cộng đồng quốc gia, nhất là tham gia các cuộc tổng tuyển cử sắp tới sẽ diễn ra trong năm 1955, theo thể thức bỏ phiếu kín và với sự tôn trọng những tự do căn bản, đúng như hiến pháp của các nước ấy đã định.
4 - Hội nghị ghi nhận những điều khoản trong thoả hiệp ngưng chiến ở Việt Nam ngăn cản sự gia nhập quân đội hay khí giới đạn dược từ ngoại quốc tới. Hội nghị cũng ghi nhận những lời tuyên bố của các chính phủ Ai Lao và Cao miên về quyết định của họ, chỉ yêu cầu ngoại quốc viện trợ quân sự hay huấn luyện viên khi nào xét cần cho việc phòng thủ hữu hiệu nước họ mà thôi, và riêng về phần Ai Lao, trong các giới hạn được ấn định trong thoả hiệp ngưng bắn liên quan đến họ.
5 - Hội nghị ghi nhận những điều khoản ngưng chiến ở Việt Nam theo đó không một căn cứ quân sự nào của ngoại quốc có thể được thiết lập trong những khu vực tập hợp của hai phe và cả hai bên phải giữ sao cho những khu vực tập hợp dành cho họ không thuộc một liên minh quân sự nào và không bị sử dụng để mở lại chiến tranh hoặc dùng để làm nơi hoạt động cho một chính sách gây hấn.
Hội nghị cũng ghi nhận những lời tuyên bố của các chính phủ Ai Lao và Cao Miên theo đó những nước này sẽ không tham gia một hiệp ước nào với các quốc gia khác, nếu hiệp ước gồm điều kiện phải tham gia một Liên minh quân sự không thích hợp với những nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc, hay, về phần Ai Lao, không phù hợp với các nguyên tắc của Hiệp định về ngừng chiến ở Ai Lao, hoặc là đặt các căn cứ quân sự của các cường quốc trên lãnh thổ Ai Lao, Cao Miên khi mà nền an ninh của họ không bị đe doạ.
6 - Hội nghị nhận thấy rằng Hoà ước liên quan tới Việt Nam có mục đích cốt yếu để giải quyết những vấn đề quân sự hầu chấm dứt chiến tranh và đường phân ranh quân sự là một đường ranh tạm thời không thể nào được coi như một ranh giới chính trị hay lãnh thổ.
Hội nghị tỏ ý tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản của Thoả hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên những tiêu đề cần thiết để thực hiện việc giải quyết chính trị cho Việt Nam trong một tương lai gần đây.
7 - Hội nghị tuyên bố rằng, đối với Việt Nam, sự giải quyết những vấn đề chính trị trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ làm cho dân tộc Việt Nam được hưởng những tự do căn bản do các cơ cấu dân chủ bảo đảm, các cơ cấu này sẽ được thành lập sau cuộc Tổng tuyển cử tự do với sự bỏ thăm kín.
Sau khi sự vãn hồi hoà bình đã có những tiến bộ khả quan và tất cả những điều kiện cần thiết đã được đầy đủ để nguyện vọng quốc gia có thể được tự do phát biểu, những cuộc Tổng tuyển cử sẽ được khai diễn trong tháng 7 năm 1956 dưới sự kiểm soát của một Uỷ ban quốc tế gồm có đại diện những quốc gia hội viên Uỷ hội quốc tế kiểm soát dự liệu trong Thoả hiệp ngưng chiến.Về vấn đề này sẽ có những cuộc trao đổi ý kiến giữa các nhà cầm quyền của hai miền kể từ ngày 20-7-1955.
8 - Những điều khoản trong Thoả hiệp ngưng chiến nhằm bảo đảm sự bảo vệ cá nhân và tài sản phải được áp dụng một cách triệt để để cho mọi người ở Việt Nam được tự do chọn lựa nơi muốn cư ngụ.
9 - Các nhà cầm quyền ở hai khu vực Nam và Bắc Việt Nam cũng như ở Ai Lao và Cao Miên đều không được chấp nhận sự trả thù cá nhân hay trả thù tập thể đối với những người hay thân nhân của những người đã hợp tác với một trong hai phe trong thời kỳ chiến tranh, dưới bất cứ một hình thức nào,.
10- Hội nghị ghi nhận bản tuyên ngôn của chính phủ Cộng hoà Pháp theo đó Pháp sẵn sàng rút quân khỏi các lãnh thổ Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam theo lời yêu cầu của các chính phủ liên hệ và trong những thời hạn sẽ được ấn định do sự thoả thuận của các phe, ngoại trừ trường hợp mà các phe đồng ý giữ lại một số quân lính Pháp tại những địa điểm và trong một thời gian được ấn định sau.
11 - Hội nghị ghi nhận lời tuyên bố của Pháp là sẽ dựa vào sự tôn trọng nền độc lập và chủ quyền  cùng sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của các nước Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến sự tái lập và tăng cường hoà bình tại các nơi đó.
12 -  Trong sự bang giao với Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam, các nước tham dự hội nghị Genève cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập thống nhất và sự toàn vẹn lãnh thổ và tránh mọi sự can thiệp vào nội bộ của các nước đó.
13 - Những nước dự Hội nghị thoả thuận sẽ tham hỏi ý kiến nhau về mọi vấn đề đo Uỷ hội quốc tế kiểm soát chuyển đạt để nghiên cứu những biện pháp cần thiết bảo đảm sự tôn trọng những thoả hiệp ngưng chiến ở Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. (Hết)

Sau khi Thoả hiệp ngưng chiến được ký kết, mọi người tại Pháp đều thở phào nhẹ nhõm như vừa cất được gánh nặng, Thoả hiệp Genève được coi như là một thành công rực rỡ.
Ngày 22-7-54, thủ tướng Mendès France đáp máy bay về Paris, được đón tiếp nồng nhiệt giữa những tiếng hoan hô vang dậy của toàn thể thành phần chính phủ đi cùng với gia đình của họ đến phi trường đón tiếp đông đảo.
Tại quốc hội, Mendès France được chủ tịch Le Trocquer hết sức ca ngợi về kỳ công làm chấm dứt chiến tranh ở Ðông Dương.
Mendès France lên diễn đàn hãnh diện nhắc đến lời hứa trước Quốc hội một tháng trước mà ông ta đã thực hiện được.
"Tôi đã kết thúc được thoả hiệp đình chiến Ðông Dương đúng như thời hạn tiên liệu.                                                                                                                                                                                                                        ...Vài ngày nữa máu sẽ ngưng chảy và thế là dứt cơn ác mộng."

*
Khrouchtchev và Chu ân Lai
phát giác thực lực của Việt minh hồi 1954

Về sau, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Nga sô, Nikita Khrou-chtchev, đã viết như sau về Hội nghị Genève, trong tập hồi ký  Khrouchtchev Souvenirs, (bản dịch Pháp ngữ, édition Robert Laffont, 1971)

(...) Hồi đó chúng tôi (Nga sô) còn có những mối giao hảo tốt đẹp với đảng cộng sản Trung quốc. Một cuộc họp sơ thảo trước ngày họp Hội nghị ở Genève đã được tổ chức ở Moscou. Chu ân Lai đại diện Trung quốc, Hồ chí Minh, Phạm văn Ðồng đại diện Việt Nam. Chúng tôi xét duyệt tình hình Việt Nam để quyết định, tùy thế yếu mạnh của Việt nammột thái độ chung ở Genève. Tình hình VN thật là trầm trọng. Phong trào kháng chiến Việt Nam lúc bấy giờ sắp bị sụp đổ. Những nguời kháng chiến hy vọng Hội nghị Genève mang lại một cuộc ngưng bắn để họ có thể giữ những phần đất đã chiếm được trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Pháp chiếm đóng Hà nội. Trên bản đồ ghi những đề nghị để giải quyết chiến sự, chúng tôi thấy những phần đất Pháp chiếm đã ăn sâu vào lãnh thổ.
Sau một buổi họp tại Moscou, trong phòng Catherine, điện Kremlin, Chu ân Lai kéo tôi(Khrouchtchev) bước ra xa để nói riêng với tôi rằng :
"Ðồng chí Hồ chí Minh nói với tôi (Chu ân Lai) là tình hình ở Việt Nam đã thất vọng, nếu chúng ta không đòi được ngưng bắn thì Việt Nam không còn có thể kháng cự chống Pháp lâu dài được nữa. Vì vậy họ (Việt minh) định rút về phía biên giới Hoa Việt khi cần thiết và họ mong chúng tôi sẵn sàng mang quân sang Việt Nam như khi trước chúng tôi đã mang quân sang Bắc Cao Ly . Nói rõ là họ muốn chúng tôi giúp họ đánh đuổi Pháp. Nhưng chúng tôi không thể nào thoả mãn lời yêu cầu ấy của đồng chí Hồ chí Minh được. Chúng tôi đã phải trả giá rất đắt chiến tranh ở Cao Ly, chúng tôi đã thiệt hại nhiều sinh mạng ở đó.Trong tình trạng hiện nay, chúng tôi không thể nào bước chân vào một cuộc xung đột mới nào nữa."
- Tôi (Khrouchtchev) cũng có một lời yêu cầu với đồng chí Chu ân Lai. Tôi nói : Cuộc chiến đấu hiện tại quan hệ bực nhất, người Việt nam đã chiến đấu giỏi, người Pháp đã thiệt hại nhiều. Ðồng chí không có lý nào từ chối không giúp đỡ quân của đồng chí Hồ chí Minh nếu họ phải rút về phía biên giới Hoa Việt. Trái lại đồng chí hãy làm cho họ tin tưởng rằng đồng chí lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ khi nào họ cần tới, như thế sẽ làm cho họ tăng tinh thần trong cuộc chiến đấu chống Pháp.
Chu ân Lai đồng ý không nói cho đồng chí Hồ chí Minh biết là Trung quốc không muốn tham dự vào cuộc chiến chống Pháp trên lãnh thổ Việt nam.

Rồi một phép lạ đã xảy ra.
Trong khi đại biểu các nước tới Genève phó hội thì Việt minh thắng một trận lớn tại Ðiện biên Phủ.
Ngay từ phiên họp đầu, thủ tướng chính phủ Pháp, Mendès France, đã đề nghị ngay rút quân xuống dưới vĩ tuyến 17. Thú thật rằng, khi hay tin đó chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên và sung sướng hết sức. Chúng tôi chẳng bao giờ hi vọng được đến như thế.
Việc rút quân xuống dưới vĩ tuyến 17 là điều căn bản chúng tôi lợi dụng tối đa để đòi hỏi trong cuộc điều đình. Chúng tôi đã chỉ thị cho các nhà đại diện ngoại giao của chúng tôi phải cứng rắn nêu lên việc đó. Sau vài lần mặc cả, chúng tôi chấp thuận đề nghị của Mendès France, thế  là Thỏa hiệp được ký kết. Chúng tôi đã củng cố được những thắng lợi của những người cộng sản Việt Nam.(...)


*


Nguyên văn chữ Pháp đoạn này :


Khrouchtchev  (...) A l'époque, nous avions encore de bonnes relations avec le parti communiste chinois. La Conférence de Genève fut précédée par une réunion préparatoire à Moscou. La Chine y était présentée par Chou En Lai, le Viet-nam par Ho chi Minh et par le Premier ministre  Pham van Dong. Nous arrê-tâmes la position qui serait la nôtre à Genève compte tenu de la position au Vietnam. Cette situation était grave. Le mouvement de résistance au Vietnam, était à la veille de s'effondrer. Les résistants espéraient que la Conférence de Genève aboutirait à un cessez-le-feu qui leur permettrait de garder les positions acquises par le peuple vietnamien dans sa lutte contre l'occupant français.  Les Français tenaient Hanoi. Sur la carte figurant nos propositions de règlement on voyait des enclaves correspondant aux positions enlevées et occupées par les Français.
A l'issue d'une de ces séances dans la salle Catherine, au Kremlin, Chou En Lai me tira par la manche pour m'entrainer à l'écart. Il dit : "Le camarade Ho chi Minh m'a dit que la situation au Vietnam est désespérée, et que si nous n'obtenons pas un cessez-le-feu, les Vietnamiens ne pourront pas résister plus longtemps aux Français. [1]
En conséquence, ils ont décidé de battre en retraite jusqu'à la frontière chinoise, si cela de-vient nécessaire, et ils veulent que la Chine se tienne prête à envoyer des troupes au Vietnam, comme elle a déjà fait pour la Corée du Nord.  Autrement dit, les Vietnamiens veulent que nous les aidions à chasser les Français. Or, il nous est parfaitement impossible d'accéder à cette deman-de du camarade Ho chi Minh. Nous avons déjà perdu trop d'hommes en Corée où la guerre nous a coủté très cher. Nous ne pouvons pas dans la situation présente, nous lancer dans un nouveau conflit.
Je fis à mon tour une requête au camarade Chou En Lai : " La lutte qui se déroule en ce mo-ment est de première importance, dis-je, et les Vietnamiens se battent bien. Les Français su-bissent de lourdes pertes. Vous n'avez aucune raison de dire à Ho chi Minh que vous lui refuserez votre aide si ses troupes doivent reculer jusqu'à la frontière chinoise.  Au contraire, laissez les croire que vous êtes prêts à le soutenir en cas de besoin et cette idée permettrait aux Vietna-miens de redoubler d'énergie dans leur résistance contre les Français ". Chou En Lai accepta de ne pas dire au camarade Ho Chi Minh que son pays ne voulait pas entrer dans la guerre contre les Français en territoire vietnamien.

Puis le miracle eut lieu.
Au moment où les délégations arrivaient à Ge-nève, les résistants vietnamiens remportaient une grande victoire en s'emparant de la place forte Dien Bien Phu. Dès la première session de la con-férence, Pierre Mendès France, alors Chef du gouvernement français proposa de ramener les troupes de son pays en deçà du 17è parallèle. J'avoue que la nouvelle, quand elle nous parvint, nous laissa bouche bée de stupéfaction et de plaisir. Nous n'avions rien espéré de tel. Le retrait en deçà du 17è parallèle était en fait la reven-dication maximum à partir de laquelle nous com-ptions négocier. Nous avons donné consigne à nos diplomates d'en faire état dans le seul but d'affirmer d'entrée de jeu une position dure. Après quelques discussions nous acceptâmes l'offre de Mendès France , et le traité fut signé. Nous avions réussi à consolider les conquêtes des communistes vietnamiens.
"Khrouchtchev Souvenirs" (Traduction en langue française, Editions Robert Laffont, 1971, pages 456-457).
 ***

Tại Hànội, trước khi thoả hiệp ngưng bắn được ký kết, những tin tức về Hội nghị Genève đã làm dân chúng hoang mang hết sức. Các cuộc biểu tình chống đối việc chia đôi đất nước, các kiến nghị phản đối, được gửi đi khắp nơi trong và ngoài nước.
Ngày 11-7-1954, Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt được thành lập với Hoàng cơ Bình làm Chủ tịch, Trần trung Dung, Uỷ viên chính trị, thiếu tướng Nguyển văn Vận, Uỷ viên quân sự, với mục đích trấn tĩnh nhân dân, tổ chức các lực luợng chính trị và chau dồi lực lượng quân sự."
Trong cuộc họp báo ngày 16-7-54, chủ tịch Hoàng cơ Bình tuyên bố hài lòng vì, bằng những biểu ngữ, những nhật lệnh ban bố, những cuộc thăm viếng khắp nơi, Uỷ ban đã gây được một niềm tin tưởng trong dân chúng và tình trạng hoang mang lúc đầu đã tiêu tan.
Về mục tiêu chính trị thì "Uỷ ban đã gửi thông tư đi các công sở để xúc tiến việc chính trị hóa các công chức  (...) Các công chức ít nhất phải biết hát bài Quốc ca và học thêm những bài ca hùng dũng.Về mục tiêu chau dồi lực lượng quân sự, sẽ đi đến thống nhất chỉ huy. Các lực lượng Quân đội quốc gia, Bảo chính đoàn, Ðịa phương quân sẽ đặt dưới quyền Uỷ ban (...). Những lực lượng cảnh binh sẽ được quân sự hoá."
"(...) Chương trình này là một chương trình đại quy mô, ít ra phải 6 tháng mới hoàn thành, Hà nội sẽ được bảo vệ và nhất định được bảo vệ. Có thể tình thế ở Genève đưa đến cuộc ngưng bắn nhưng chính phủ quốc gia không nhìn nhận sự kiện đó.
Về binh bị, chúng ta không yếu, về chính trị chúng ta tin tưởng ở vị lãnh đạo.
Dù sao với năng lực làm việc, với tổ chức lực lượng sẵn có, chúng ta có thể cầm chắc vận mệnh trong tay (...)
Hướng về phía các phóng viên ngoại quốc, Chủ tịch Hoàng cơ Bình yêu cầu các báo ngoại quốc hãy :"tỏ cho các thủ đô dân chủ biết rằng dân thủ đô Hà nội quyết giữ vững tự do của họ (...)

Ðể bảo vệ Hà nội, Uỹ ban thành lập Trung đoàn Thủ đô gồm các Lực lượng Nội ngoại thành Hà nội và Gia Lâm. Các Thanh niên Bảo vệ đoàn, Phụ nữ quốc gia đoàn, Thiếu nữ quốc gia đoàn, các Uỷ ban bảo vệ Tỉnh, Thị xã và Khu phố được lệnh thành lập. Uỷ ban ra lệnh cấm dân chúng từ 18 đến 50 tuổi không được phép ra khỏi BắcViệt nếu không có giấy phép của Ủy ban.
Ngày 21-7-1954, tin Ngưng bắn và Tản cư khỏi Bắc việt được truyền đi nhanh chóng. Dân chúng thẫn thờ, lo ngại.
Quân đội Pháp được lệnh sửa soạn rút khỏi Hà Nội trong 80 ngày, khỏi Hải Dương trong 100 ngày và khỏi Hải Phòng trong 300 ngày.

Ngoại trưởng Trần văn Ðỗ từ Genève đánh điện về xin từ chức, sau khi tức tưởi tuyên bố với các báo chí như sau :
Phái đoàn Việt Nam đã không hay biết một tý gì về thoả hiệp ngưng chiến. Từ khi đến Genève, phái đoàn  không bao gìờ được hỏi ý kiến về điều kiện đình chiến, đường phân ranh và thời hạn Tổng Tuyển cử.
Tất cả nhưng vấn đề đó đều được thào luận ngoài Hội nghị, thành ra phái đoàn Việt Nam không làm thế nào bầy tỏ được quan niệm của mình (...)
Ngày 23-7-1954,Tổng Ðại lý Pháp ở Hà Nội, Jacques Compain, họp báo, nói về vấn đề tản cư dân chúng khỏi Bắc Việt. Chính phủ Pháp nhận đài thọ tất cả chi phí chuyên chở bằng máy bay hay bằng tàu thuỷ cho bất cứ ai muốn di cư vào NamVìệt.
Uỷ ban Bảo vệ Bắc Việt trong nhật lệnh số 2 ngày 22-7-54 kêu gọi "binh sĩ" hơn lúc nào hết phải bình tĩnh, tôn trọng kỷ luật, tránh hết những hành động sôi nổi có hại, sẽ làm khó khăn cho đường lối chính trị của Chính phủ. Gia đình các bạn sẽ được tản cư để tạm lánh đất Bắc đang lâm vào tình thế hiểm nghèo. Ðó chỉ là một tiên liệu khôn ngoan, chứ không có nghĩa là thoái triệt (...)
Ngày 22-7-54, thủ tướng chính phủ, ông Ngô đình Diệm từ Sàigòn công bố bản Tuyên ngôn :
"Một cuộc ngưng bắn ngoài chúng ta đặt vào cộng sản miền bắc nước Việt Nam và hơn 4 tỉnh Trung Việt.
Ðể chống lại sự bất công đó, Chính phủ Quốc gia Việt Nam, vừa được thành lập ngót hai tuần lễ nay, đã vô cùng long trọng phản kháng, mặc dù chính phủ rất yêu chuộng hoà bình. Phái đoàn của chúng ta tại Hội nghị Genève đã không ký tên dưới thoả ước đó vì chúng ta không có thể thừa nhận sự chiếm đoạt của nước Trung Hoa Xô-viết hoá do sự lừa dối của nước chư hầu Việt minh, quá nửa phần lảnh thổ quốc gia Việt Nam. Chúng ta không thể ký nhận việc nô lệ hoá hàng mấy triệu đồng bào trung thành vời lý tưởng quốc gia (...).
Ðối với Việt nam đã bị khốc liệt đặt trước một việc đã rồi, thử chống lại bằng lối bạo động chỉ có thể xô đẩy chúng ta vào một thảm hoạ và huỷ hoại mọi sự may mắn xây lại một ngày kia một nước tự do từ Nam chí Bắc Việt nam.
Ðồng bào !
Mặc dầu nỗi đau đớn, mặc dầu nỗi phẫn uất của chúng ta, chúng ta hãy bình tĩnh và đoàn kết để tiếp đón các đồng bào tỵ nạn và lau khô dòng lệ của họ, trong khi bắt tay ngay vào việc tranh đấu hoà bình và khó khăn, cuộc tranh đấu cuối cùng phải giải phóng đất nước của chúng ta khỏi mọi thống trị của ngoại quốc dù dưới hình thức nào, cùng mọi sự áp bức."

Ngày 28-4-0954, Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Bắc việt lên tiếng hiệu triệu dân chúng di cư vào Nam
" (...) Ðồng bào phải nhất quyết ra đi. Ở lại trong một thời gian không xa, đồng bào sẽ khốn khổ về tinh thần cũng như về vật chất (...)
 Một kế hoạch di cư được đặt ra và một Uỷ ban di cư được thành lập.
Toà Thị chính Hànội đặt 10 địa điểm tại : nhà Vạn Bảo, nhà Thủy Tạ, trường Ðỗ hữu Vị, trường Thanh Quan v.v ...để dân chúng đến ghi tên di cư. Trong hai ngày đầu (27 và 28-7-54), 60 ngàn người đã đến ghi tên vào Nam, đến ngày 31-7-54 thì con số người ghi tên lên đến 12.268 người.
Ngày 27-7-54, Thủ tướng Ngô đình Diệm đánh điện xin từ chức, nhưng Quốc trưởng Bảo Ðại yêu cầu ông ở lại chức vụ.
Ngày 30-7-54, Thủ tướng Ngô đình Diệm hiệu triệu dân chúng Bắc Việt và Bắc Trung Việt di cư vào vùng tự do.
Ngày 5-8-1954, cầu hàng không Hànội -  Sài-gòn bắt đầu hoạt động đại quy mô, mỗi ngày chở 1.500 người vào Nam. Số người di cư bằng đường thủy hàng ngày cũng tương đương con số đó.
Cuộc di cư khổng lồ tiếp diễn trong gần 10 tháng, một triệu người dân Bắc Việt bỏ cửa nhà làng mạc di chuyển vào miền Nam để tránh nạn cộng sản.
*****
*Chiến tranh Pháp Việt khởi sự 8 năm trước chấm dứt.
Ðó cũng là sự thất bại của một chiến lược.
Trong thờì gian 9 năm, các chính phủ Pháp khác nhau đã kế tiếp cử nhiều danh tướng sang Ðông Dương mà không gặt hái được kết quả mong muốn, trái lại đã làm mất Ðông Dương. Tướng Raoul Salan viết  khi  Hiệp  định  ngưng  bắn  được  ký kết ở Genève: Chúng ta đã đánh mất Ðông Dương, một thuộc địa đáng chú ý nhất của đế quốc Pháp), "Nous avons perdu l'Indochine, le plus beau fleuron de l'empire", viết trong tập Hồi ký : Sự cáo chung của một đế quốc.   ("Mémoires : Fin d'un em-pire ")  Editions Presse de la Cité 1971).
Sự thất bại ở Ðông Duơng là khởi điểm cho sự tan rã đế quốc thuộc địa với những sự thiệt thòi lớn lao cho nước Pháp.,

Một nửa nước Việt Nam rơi vào tay cộng sản.
Dân chúng phải gánh chịu chế độ độc tài, chủ nghĩa vật chất tam vô do bọn Việt minh nhập từ Nga sô vào áp đặt lên đầu dân tộc. Dân chúng Việt Nam phải gánh chịu những thống khổ, những đau đớn vật chất và tinh thần, đau đớn đến tận cùng của tâm linh, những tàn phá huỷ hoại tận gốc nền tảng văn hiến cổ truyền Việt nam, cắt đứt những sợi dây thiêng liêng của nền đạo lý dân tộc, của tình nghĩa vợ chồng, cha con, anh em, họ hàng thân thích, của sự giao thiệp giữa người với người.  Chế độ vô nhân, vô luân cộng sản đạp đổ nền tảng gia đình, phá huỷ nền tảng xã hội, và 20 năm sau, năm 1975, cộng sản áp đặt chế độ vật chất đó trên toàn cõi Việt Nam.
Trong lịch sử loài người, chẳng có một chế độ nào, chẳng có một chính quyền nào cai trị vĩnh viễn một đất nước. Chế độ cộng sản Việt minh cũng không thoát khỏi thông lệ đó. Chúng cai trị bằng chính sách cảnh sát công an nên toàn dân oán thán, chẳng chóng thì chầy thế nào cũng bị lật đổ để thay thế bằng một chế độ dân chủ, nhân quyền, dân quyền, hoặc cũng do nội bộ chúng tranh giành quyền lợi, tự phá hoại, tự giày xéo giết hại lẫn nhau đến tan vỡ.
Ngày ấy cũng chẳng bao xa !
Gương đảng cộng sản Nga sô còn kia !
Nước Việt Nam ngàn đời không bao giờ tha thứ, không bao giờ quên được mối hận cộng sản , không bao giờ chấp nhận chế độ cộng sản !

        Tô Vũ
Paris, Tháng ba 2006
_____________________________________________________
CHÚ THÍCH BÀI SỐ 9
[1] Chú thích trong bản chữ Pháp : Tout le monde, à l’Ouest, ignorait que la situation des Vietnamiens fut aussi désespérée (Tất cả các nước Tây phương đều không biết tình trạng Việt minh đã thất vọng đến thế).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét