45 - 54, CHÍN NĂM KHÓI LỬA
tôvũ
Bài số 8
*
Trước những chi phí nặng nề cho chiến cuộc Ðông Dương và
trước những đòi hỏi gia tăng viện trợ về Không quân mà Bộ Chỉ huy Ðông Dương
yêu cầu tiếp viện gấp để áp dụng chiến thuật "lập căn cứ địa-không
như căn cứ Na San, để cầm chân quân Việt minh", chính phủ Pháp
không đủ khả năng đáp ứng cấp thời nên Thủ tướng René Mayer chỉ thị cho vị Chỉ
huy Ðông Dương phải tự túc với những phương tiện Không quân sẵn có và phải thay
đổi chiến thuật ở mạn xứ Thái để bảo vệ sinh mạng binh sĩ mà không cần giữ đất
đai.
Chính
phủ Pháp đã hết sức chán nản trước chiến cuộc kéo dài năm này qua năm nọ làm
hao tổn ngân quỹ và làm chia rẽ nội bộ, đầu đề cho sự đối lập của các đảng phái
chính trị.
Vì vậy ngày 8-5-53, tướng Navarre được cử sang Ðông Dương
giữ chức vụ Chỉ huy tối cao Quân lực viễn chinh Pháp thay thế tướng Salan với
nhiệm vụ tìm một lối thoát cho Pháp rút khỏi Ðông Dương mà không mất mặt.
Henri Navarre là một đại
tướng 5 sao, 55 tuổi, đang phụ trách nhiệm vụ Tham mưu trưởng cho Thống tướng
Juin ở Cơ quan phòng thủ OTAN [1]. Navarre chưa hề bước chân tới Ðông Dương bao giờ, nên ngày
7-5-53 khi Thủ tướng Mayer mời Navarre giữ chức Chỉ huy Ðông Dương, Navarre đã
từ chối, nhưng Thủ tướng Mayer khẩn khoản :
" (...)Thủ tướng Mayer nói :
- Việc Ðại tướng không biết chút gì
về Ðông Dương cũng là một lý do để tôi cử Ðại tướng. Ðại tướng sẽ nhìn vấn đề
bằng một cặp mắt mới mẻ "
" - Nhưng, thưa Thủ
tướng ...
" - Thôi mà Ðại tướng ... Tôi có
cần nhắc Ðại tướng là một quân nhân không có quyền từ chối một nhiệm vụ giao
phó, nhất là nhiệm vụ đó lại nguy hiểm. Chúng ta đang bị kẹt trong một
ngõ cụt. Chúng ta phải tìm một lối thoát danh dự cho nước Pháp, Ðại tướng hãy
giúp chúng tôi (...) "
***
Ngày 21-5-53, tướng Navarre có tướng
Không quân Bodet và tướng Gambiez phụ tá, tới phi trường Gia Lâm cùng với Tổng
trưởng Letourneau.
Khi Navarre đặt chân tới Ðông Dương thì
nước Pháp lại không có Thủ tướng, chính phủ René Mayer bị đổ.
Cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài 36
ngày, mãi đến ngày 26-6-53, Joseph Laniel mới hội đủ số phiếu để chấm dứt cuộc
khủng hoảng chính trị.
Navarre điều tra và nghiên cứu tình hình Ðông Dương trong
một tháng, rồi trở về Pháp tường trình kết quả trước Hội đồng các Tham mưu
trưởng do Thống chế Juin chủ toạ ngày 17-7-53. Ngày 24-7-53, Navarre trình bầy
kế hoạch trước Hội đồng Quốc phòng do Tổng thống Pháp chủ toạ.
Navarre yêu cầu Chính phủ Pháp :
1- Ðặt một đường lối chính trị rõ rệt ở
Ðông Dương,
2- Quy định quyền hạn của Chỉ huy trưởng
Ðoàn quân viễn chinh.[2]
3- Rút bớt
quân đóng ở Pháp và ở Ðức để chuyển sang Ðông Dương.
4- Phát triển và tăng cường quân đội các Quốc gia Liên kết (Việt Miên
Lào).
Navarre quyết định giữ vững vùng đồng bằng Bắc Việt, mở những cuộc hành
quân càn quét trong vùng đó để mang lại an ninh, còn những vùng khác thì
Navarre không có khả năng giữ vững.
Trả lời một câu hỏi, Navarre xác nhận nếu Việt minh đánh Thượng Lào thì
Navarre không thể đương đầu được, Navarre yêu cầu chính phủ ra chỉ thị rõ rệt
nếu trường hợp đó xảy ra.
Những lời yêu cầu này của Navarre chẳng bao giờ được Chính phủ Pháp trả
lời cũng như đường lối chính trị của Pháp ở Ðông Dương chẳng bao giờ được đặt
ra một cách rõ rệt.
Chính phủ Pháp nhìn những đòi hỏi tăng cường bằng con mắt chán nản, mọi
người chỉ mong chóng thoát ra khỏi Ðông Dương nhưng chẳng biết thoát ra bằng
cách nào.
Navarre trở lại Ðông Dương với những lời hưá hẹn trong những đường lối
mập mờ. Navarre kinh hãi khi thấy kế hoạch bí mật của mình trình bầy trước Hội
đồng Quốc phòng được báo France Observateur ngày 30-7-53 đề cập tới trong bài
"En un combat douteux" do ký giả Roger Stéphane viết, nhất là
vấn đề phòng thủ xứ Lào là một yếu điểm quan trọng của kế hoạch.
Tái lập căn cứ Ðiện biên Phủ
Ba tháng sau, những tin tức cho biết sư đoàn 316 Việt minh tiến về phía
tây bắc đe doạ Lai Châu, các sư đoàn 308, 312 và sư đoàn pháo binh 351 tiến về
phía Ðiện biên Phủ, đe dọa Thượng Lào.
Navarre cử quân nhảy dù, do tướng Gilles chỉ huy, tái chiếm Ðiện biên
Phủ để lập căn cứ chặn Việt minh và bảo vệ xứ Lào [3].
Ít ngày sau, ngày 5-12-53, Navarre bỏ căn cứ Lai Châu. Quân trú phòng
Lai Châu được bốc bằng máy bay đưa về Ðiện biên Phủ để tăng cường.
Ðiện biên Phủ là một thung lũng phì nhiêu, lớn hiếm có ở mạn tây bắc Bắc
Việt. Dài 15 cây số, rộng 5 cây số. Giữa thung lũng có con sông Nam Un chảy qua
cánh đồng do dân cư Thái cầy cấy, sông Nam Un chảy vào sông Nam Hu, rồi Nam Hu
chảy vào sông Mê Kông trên đất Lào. Một phi đạo bỏ phế từ lâu, từ thời Nhật,
nằm dọc theo sông Nam Un về phía bắc lòng chảo.
Ðiện biên Phủ cách Hà nội 300 cây số về phía tây, cách Na San 80 cây số
về phía tây nam, cách Lai Châu 80 cây số về phía nam. Chung quanh thung lũng
Ðiện biên Phủ là núi đồi trập trùng, ngọn cao ngọn thấp bao quanh tứ phía, rừng
già khắp nơi làm chỗ ẩn náu dễ dàng cho quân du kích. Cũng như Lai Châu và Na
San[4], Ðiện biên Phủ là một điểm chiến
lược bảo vệ miền tây bắc xứ Lào và thủ đô Vạn Tượng (Luang Prabang). Vạn Tượng
ở cách Ðiện Biên Phủ 200 cây số về phía Nam.
Navarre và các tướng phụ tá như
tướng Không quân Fay, đại tá Nicot, tướng Cogny đều hoàn toàn đồng ý biến Ðiện
biên Phủ thành một căn cứ địa-không vững chắc để chống Việt minh. Navarre lý
luận rằng Ðiện biên Phủ ở xa hậu cứ Việt minh ba, bốn trăm cây số, qua rừng
rậm, núi cao, Việt minh không thể tiếp tế nổi lương thực và khí giới đạn cho 4
sư đoàn được, nếu Việt minh tấn công Ðiện biên Phủ thì giỏi lắm chỉ một tuần lễ
là phải rút lui vì cạn tiếp tế. Trái lại quân Pháp trú phòng Ðiện biên Phủ sẽ
được tiếp tế bằng máy bay, trừ phi phi đạo bị phá huỷ do trọng pháo của Việt
minh không còn sử dụng được nữa, trường hợp này khó có thể xẩy ra được vì phi
đạo ở quá tầm trọng pháo của Việt minh và nếu Việt minh mang được trọng pháo
tới gần thì tức khắc sẽ bị máy bay hay trọng pháo huỷ diệt ngay.
Ngày 20-11-53, từ hồi 11 giờ sáng, 63 chuyến máy bay Dakota thả 3.000
lính dù và chiến cụ xuống thung lũng Ðiện biên Phủ. Ðại tá Bigeard và
tiểu đoàn 6 Dù BPC, nhảy xuống điểm DZ (dropping zone) tây bắc, đại tá
Bréchignac và tiểu đoàn 2 dù thuộc trung đoàn 1 RCP nhảy xuống điểm DZ
phía nam lòng chảo.
Tiểu
đoàn của Bigeard nhảy trúng khu vực Việt minh đang tập dượt nên bị Việt
minh chống cự mãnh liệt. Máy bay Pháp phải yểm trợ đến 4 giờ chiều Việt minh
mới rút lui lui, bỏ lại 90 xác chết. Pháp thiệt 13 người chết, 40 bị thương
Hai
ngày sau, ngày 21 và 22 tháng 11-53, liên tiếp 3 tiểu đoàn Dù nữa được thả
xuống cùng với một đại đội pháo binh. Ngày 24-11, phi đạo được sửa chữa xong,
phi cơ lại đáp xuống được.
Ngày
27-11-53, đại tá De Castries được cử giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Ðiện biên
Phủ thay tướng Gilles, người đã chỉ huy cuộc nhảy dù đầu tiên.
Các
cơ quan của bộ Chỉ huy được đặt ngầm dưới đất, ở giữa lòng chảo, bên bờ sông
Nam Un. Phía trái bộ Chỉ huy là bệnh viện và phi đạo dài hơn 1 cây số, nằm bên
kia sông Nam Un. Một phi đạo phụ được xây đắp.
Trong thung lũng, 10 điểm tựa lớn
bao vây bộ Chỉ Huy và phi đạo. Các điểm tựa được đặt tên bằng những tên phụ nữ
Gabrielle (Bắc), Béatrice, Dominique (Ðông), Eliane, Isabelle (Nam), Junon,
Claudine, Françoise (Tây), Huguette và Anne Marie.
Hàng ngàn tấn vật liệu, một đoàn
chiến xa và trọng pháo, lương thực, đạn dược, dây kẽm gai được máy bay hàng
ngày đổ xuống ùn ùn. Kết cuộc thì các đồn bót, các công sự phòng thủ đều được
hoàn thành hoàn hảo. 12 tiểu đoàn dù tới nơi để đảm nhiệm việc phòng thủ kiên
cố Ðiện biên phủ.
Navarre, Cogny và De Castries vững bụng, hài lòng.
Bản đồ Ðiện biên phủ
Ðầu tháng 12-53, những tin tức
tình báo và không-ảnh do phi cơ do thám cho biết những sư đoàn Việt minh đã
xuất hiện gần Ðiện biên Phủ. Hàng ngàn dân công với những đoàn xe đạp chở 250
ký mỗi chiếc xe đạp, 600 xe cam-nhông Mô-lô-tô-va chở 144 trọng pháo và
súng phòng không, ống bắn hoả tiễn 6 nòng, tất cả di chuyển ngày đêm không
ngừng về phía Ðiện biên Phủ, từ mạn biên giới Hoa Việt do viện trợ của Trung
cộng đổ đến ồ ạt, trên con đường từ Lạng Sơn, Cao Bằng chuyển đến.
Những tin tức đó làm Navarre lo ngại,
nhất là Hội nghị Bá Linh quyết định đưa vấn đề Tái lập Hoà bình ra bàn cãi tại
Hội nghị họp ở Genève ngày 25-4-54 với sự hiện diện của các nước liên hệ.
Navarre lo ngại Việt minh và Trung cộng
sẽ đặt cạn láng vào ván bài cuối cùng giành thắng lợi trên chiến trường
để làm hậu thuẫn cho cuộc đàm phán. Trong một bản tường trình do Tướng Không
quân Bodet mang tay về Pháp tường trình cho chính phủ Pháp, Navarre lần
đầu tiên đã đề cập đến trường hợp thất bại ở Ðiện biên Phủ như sau :
"(...) Với những phương tiện mới
của Việt minh mà những nguồn tin đứng đắn xác nhận, tôi không thể bảo đảm chắc
chắn sự thắng lợi được. Ðây là một trận do Không quân định đoạt (...) Tôi yêu
cầu Chính phủ tăng cường gấp về Không quân và tôi xin lập lại, sẽ do Không quân
mà chúng ta thắng hay bại trong trận này (...) "
Mặc
dầu lời kêu gọi tiếp viện khẩn thiết như vậy, nhưng Bodet cũng trở về tay
không, không mang lại cho Navarre một cứu viện nào, Navarre hết hy vọng.
Tuy nhiên những ngày kế tiếp đó, các nhân vật quan trọng
thay phiên nhau đến Ðiện biên Phủ để thị sát.
Tổng trưởng Quốc
phòng Pleven, Bộ trưởng Chiến tranh Che-vigné, Bộ trưởng Quốc gia Liên kết Marc
Jacquet, Ðại tướng Ely, trong cuộc viếng thăm Ðiện biên Phủ tất cả đều tỏ vẻ
hài lòng vững bụng, mà không một ai lo ngại nghĩ đến việc triệt thoái, duy chỉ
có tướng Fay, Tham mưu trưởng Không quân của Navarre, khi tháp tùng Pleven
trong cuộc viếng thăm, đã trình bầy với Pleven rằng, nên lợi dụng lúc Việt minh
chưa xiết chặt vòng vây, 2 phi đạo còn dùng được, mà triệt thoái khỏi Ðiện biên
Phủ càng sớm càng tốt, nhưng lời trình bày của Fay đã làm cho những người hiện
diện lạnh lùng lãnh đạm, Cogny nhún vai khó chịu. Sau này Pleven nói là tướng
Fay đề nghị như vậy là lo ngại tới mùa mưa phi đạo bị ngập không
sử dụng được. Trở về Pháp, Pleven tường trình trước Quốc hội là trong cuộc
viếng thăm Ðiện biên Phủ ngày 19-2-54, Pleven nhận thấy những người bảo vệ căn
cứ đó đều tỏ ra tin tưởng vào những phương tiện của căn cứ không một ai nghĩ
tới sự triệt thoái.
Tuy
vậy những tin tức về tiếp tế của Việt minh làm Navarre càng ngày càng lo lắng :
một trung đoàn cao xạ phòng không Việt minh vừa vượt biên giới Hoa Việt tiến
tới Ðiện Biên, từng đoàn vận tải Molotova Nga viện trợ ngày đêm vận chuyển khí
giới đạn dược đến vùng tây bắc.
Ngày 4-3-54, Navarre họp với Bộ Chỉ huy
tại Ðiện biên Phủ dự tính mang thêm ba tiểu đoàn nữa đến để đặt thêm những điểm
tựa mới, hy vọng với sự đề phòng mạnh mẽ đó Việt minh không tấn công ngay, hoãn
lại để nghiên cứu kế hoạch mới, có thể trong thời gian đó mùa mưa tới sẽ làm
cản trở nhiều, Việt minh sẽ bỏ ý định tấn công.
" Như vậy thì có thể rằng Việt
minh không kéo tới nữa, De Castries nói.
- Chúng ta nên thúc đẩy cho chúng đến
tấn công sớm để cho xong đi.
- Chắc chúng ta có giữ vững được
không ? Navarre hỏi.
- Sẽ gay go lắm, thưa Ðại tướng, De
Castries nói. Nhưng nếu Ðại tướng gửi cho 2 hay 3 tiểu đoàn nữa thì chắc giữ
được.
- Cogny nói : chúng ta không nên làm
cho Việt minh bỏ ý dịnh tấn công của họ. (...)
*
Trận
Ðiện biên Phủ
Cuộc tấn công chờ đợi từ bao ngày đã
khởi sự hồi 17 giờ 15 ngày 13-3-54.
Trọng pháo 105 ly của Việt minh bắn liên
hồi vào hai điểm tựa Gabrielle và Béatrice là hai điểm xa nhất về phía bắc và
đông bắc. Mọi người đều bị bất ngờ. Ngay đợt đầu, tại điểm Béatrice, thiếu tá
Pégaux và các sĩ quan phụ tá bị chết ngay vì đạn trúng hầm, còn sống sót có
trung uý Vadot.
Trung tá Gaucher, phụ trách điểm bắc
đang gọi dây nói hỏi tin thì đạn cũng trúng hầm, Gaucher bị đứt một cánh tay,
máu chảy xối xả, một lúc sau thì Gaucher chết. Một sĩ quan phụ tá cũng bị tử
thương.
Trung tá Langlais, chỉ huy đoàn quân trừ
bị, được De Castries cử đến thay thế Gaucher phụ trách khu bắc và khu trung
tâm.
Tại điểm tựa Béatrice (đông bắc) sau
nhiều đợt pháo kích dữ dội, 6 tiểu đoàn Việt minh xung phong ồ ạt. Quân quyết
tử với những bộc pha cắm ở đầu các cây tre dài phá vỡ được nhiều nơi trên hàng
dào dây kẽm gai. 2 tiền đồn nhỏ thuộc Béatrice thất thủ,Việt minh chuyển về
phiá bắc và phiá đông để uy hiếp điểm Gabrielle và điểm Dominique.
Sáng ngày 14-3-54, trọng pháo Việt minh
lại giội vào khu trung tâm, nơi có ban Chỉ huy Trung ương của Ðiện biên Phủ.
Trên phi đạo, 3 phi cơ Bearcats bị phá
hủy, đài kiểm soát không vận bị sập.
Tại bệnh viện, thương binh được chở đến
tới tấp. Y sĩ thiếu tá Grauvin và các y sĩ phụ tá mổ xẻ, khâu vá không ngớt
tay. Máu dự trữ hết, thuốc trụ sinh cạn.
Ðợt pháo kích đầu tiên làm Bộ Chỉ huy
Pháp kinh sợ hiệu lực của trọng pháo địch. Phản ứng vô hiệu của Pháp làm De
Castries thấy rằng không thể dùng trọng pháo phản kích hay máy bay oanh tạc để
huỷ diệt trọng pháo địch được như trong kế hoạch phòng thủ đã dự định. Thiếu tá
Piroth, Chỉ huy đơn vị trọng pháo và thiết giáp của căn cứ, lúc trước bảo đảm
là có thể diệt trọng pháo địch trong hai ngày, nay thất vọng hết sức vì không
biết địch ở chỗ nào mà phản kích. Piroth bỏ ăn ưống thất thểu bước vào hầm bộ
Chỉ huy Trung ương gặp De Castries :
De Castries hỏi Piroh :
- Thiếu tá có biết trọng pháo Việt
minh đặt ở đâu không ?
- Có lẽ ở đây, Piroth trả lời, tay
run run chỉ vào một điểm mơ hồ trên bản đồ
- Thiếu tá có thể khoá họng nó được
không?
Hai ngày trước thì Piroth sẵn sàng trả
lời là với trọng pháo 55 ly, ông ta có thể khoá họng được bất cứ ổ pháo nào của
địch, nhưng hôm nay thì khác. Hôm nay đứng trước sụ thật tàn khốc khủng khiếp,
Piroth cảm thấy bất lực. Ra khỏi hầm của Castries, Piroth gặp Langlais. Piroth
như người mất hồn, nói:
- Tôi vừa nói với đại tá là chúng ta sẽ chết hết cả,
Trung tá ơi ! Thật là lỗi tại tôi !
Năm phút sau, trở về hầm, Piroth rút
khoá lựu đạn cho nổ tung tự tử chết.
Tin Piroth chết làm Castries lo ngại,
nhất là tin tình báo mới nhất cho biết chung quanh Ðiện biên Phủ, Việt minh dự
trữ sẵn sàng đạn trọng pháo 150 ly, đạn phòng không, trái phá 75 không giật, và
đạn moọc-chi-ê đủ cỡ.
Navarre và Cogny khi biết tin những sự
thiệt hại, liền gửi quân tiếp viện đến Ðiện biên Phủ.
Tiểu đoàn dù 5 Việt Nam, dưới quyền chỉ
huy của thiếu tá Botello, được thả xuống ngày 14-3 và hai ngày sau là Tiểu đoàn
dù số 6 BPC do thiếu tá Thomas chỉ huy.
Trưa ngày 14-3-54 trọng pháo Việt minh
lại nã vào điểm tựa Gabrielle (Bắc) do Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn An-giê-ri
chống giữ. Việt minh kéo ca-nông 75 không giật đến gần bắn thẳng vào đồn. Bót
chỉ huy bị trúng đạn sập. Lính Việt minh từ các sườn đồi núi chung quanh đổ xô
xuống.
4 giờ sáng ngày 15-3-54, sau khi kêu
trọng pháo bắn vào địa điểm của mình thì điểm tựa Gabrielle bị tràn ngập, Thiếu
tá chỉ huy đồn Macquenel và sĩ quan phụ tá bị Việt minh bắt cầm tù.
Sáng sớm ngày 15-3, tiểu đoàn dự trữ 1
BEP và tiểu đoàn 5 BPVN Việt nam, với 6 chiến xa, phản công điểm tựa Gabrielle
để cố giải thoát một đại đội còn kẹt ở một tiền đồn mà không hàng Việt minh.
Sau hai giờ xung phong dưới làn mưa đạn
trọng pháo và moọc-chi-ê địch, đoàn quân phản công không tiến quá được 1 cây số
rưỡi mà đã bị thiệt hại nhiều phải rút lui bỏ cuộc.
Ngày 16 và 17-3, ba đại đội lính Thái
đóng tại điểm tựa Anne Marie (tây bắc) trước uy hiếp của địch, sợ quá bỏ trốn
hết, bỏ ngỏ điểm tựa Anne Marie.
Ngày
26-3, phi đạo không còn sử dụng được nữa vì luôn luôn bị pháo kích và bị cao sạ
phòng không của Việt minh uy hiếp. Ðã từ 10 ngày chỉ có một vài máy bay do
những phi công cảm tử, ban đêm đáp xuống phi đạo, không có đèn đóm gì báo hiệu.
Ngày 26-3, chiếc máy bay chuyên chở cuối cùng chở 28 thương binh cất cánh bay
thoát, rồi từ đó đồ tiếp tế phải thả xuống bằng dù, một phần lớn lọt vào khu
vực Việt minh chiếm đóng.
Navarre hết hy vọng chống giữ nổi Ðiện
biên Phủ.
Báo cáo của Cao ủy Dejean về đến Paris
làm tê tái chính phủ Pháp, như giội một chậu nước đá vào mọi người. Hội đồng
Quốc phòng họp khẩn cấp. Trong một bầu không khí vô trách nhiệm và mất tinh
thần, các Tham mưu trưởng các binh chủng đều tuyên bố vô khả năng tiếp viện để
cứu giúp đoàn quân Ðiện biên Phủ.
Từ ngày 30-3-54 đến ngày 5-4-54, Việt
minh chiếm được các điểm tựa Dominique (Ðông) và Eliane (Ðông nam).
Ngày 5-4, Navarre thả tiểu đoàn dù số 2
thuộc trung đoàn 1 RCP xuống tăng cường.
Ngày 9-4, đại tá Bigeard dùng súng phun
lửa phản công chiếm lại được điểm tựa Eliane.
Ngày 1-5-54, sau 50 ngày bị vây hãm,
lương thực và đạn dược đã cạn gần hết, dù tiếp tế thả xuống thì lọt vào tay
Việt minh một nửa, binh lính và sĩ quan mỏi mệt kiệt sức, ngày đêm chỉ lúc nào
ngớt tiếng pháo kích thì ngồi chợp mắt ngủ được một chút trong hầm. Xác chết
xếp chồng chất đầy một hố giao thông rồi lấp đất vùi lại sơ sài, mùi xú uế khắp
nơi. Trong bệnh viện, giòi bọ bò ngổn ngang quanh các thương binh nằm chật ních
không có chổ len chân.
Navarre hết hy vọng thoát khỏi thất bại
chỉ còn mong chờ Hội nghị Genève nhóm họp, may ra hai bên đình chiến hoặc nếu
không thì hy vọng vào sự can thiệp không quân của Mỹ.
*
De Castries được thăng chức Thiếu tướng,
lon và sao được máy bay thả dù xuống.
Ðã từ lâu, De Castries không ló mặt ra
khỏi hầm, suốt ngày ngồi ôm máy truyền thanh liên lạc liên tục với Hà nội, tiểu
tiện vào các vỏ hộp. Thành ra, trên thực tế, trung tá Langlais là người chỉ huy
thực sự trong Ðiện biên Phủ. Chính Langlais, trong lúc giao tranh, đã đến các
điểm tựa để giữ vững tinh thần binh sĩ, chính Langlais và Bigeard đã tổ chức
lại các đơn vị, cử các sĩ quan thay thế các người thiệt mạng hay không có khả
năng, tổ chức các cuộc phòng thủ và các cuộc tấn công.
Tới ngày 1-5, một tiểu đoàn tiếp viện
nữa được thả dù xuống.
Trận Ðiện biên Phủ kết liễu
Ðêm 6 rạng 7 tháng 5-1954, Việt minh
pháo kích khắp nơi. Quân xung phong ồ ạt tiến vào các điểm tựa, trận tấn công
cuối cùng đã khởi diễn.
Ðến chiều ngày 7-5-54 thì Việt minh vượt
qua tất cả các điểm tựa còn lại, ngoại trừ điểm Isabelle ở cực nam vẫn còn giữ
vững.
Việt minh tiến vào Bộ Chỉ huy trung ương
và Bệnh viện giải phẫu. Nơi đây các thương binh các ngả kéo đến tràn ngập, chờ
đợi đến lượt được săn sóc, xếp hàng dài hàng cây số ngoài cửa bệnh viện.
17 giờ ngày 7-5-54, Castries từ biệt Cogny
và báo cáo huỷ diệt đài liên lạc vô tuyến.
Quân Việt minh tới cửa hầm.
De Castries từ dưới hầm bước lên, đầu
đội mũ ca-lô đỏ, mặc sơ mi vén tay, ngực đeo một hàng cuống mề-đay, mặt xanh
mét, miệng hút thuốc, mắt hấp hay vì chói ánh sáng, lặng lẽ leo lên một chiếc
xe gíp do một tài xế Việt minh lái ra khỏi Ðiện Biên Phủ về cơ quan điều tra
của Việt minh.
Một tiếng rưỡi đồng hồ sau, hồi 18 giờ
30, điểm tựa Isabelle bị cơn mưa trọng pháo giội vào, đại tá Lalande cầm cự đến
1 giờ sáng ngày 8-5-54, thì đầu hàng cùng với 600 lính Lê dương.
Tiếng súng im khắp nơi.
Trận Ðiện biên Phủ kết liễu.
Trong số 14.450 binh sĩ giữ Ðiện biên Phủ, tức là quân số của 6 tiểu đoàn
dù, 10 tiểu đoàn bộ binh và vài đại đội tạp chủng khác thì có 1.500 người chết,
3.000 người bị thương và khoảng 10.000 bị bắt cầm tù.
Việt minh dẫn đoàn tù binh đi bộ, từng toán 400 người, qua rừng qua núi,
suốt 4 tháng trời mới đến các trại giam ở vùng Thanh Hoá hay vùng biên gìới Hoa
Việt. Số người chết vì cực nhọc, bệnh tật và thiếu thốn rất nhiều.
Sau khi Hiệp định Genève ký kết thì ngày
2-9-54, số tù binh đó được trao trả cho Chính phủ Pháp, trong số này có tướng
De Castries và toàn bộ Tham mưu Ðiện biên Phủ.
*
Sau khi Ðiện biên Phủ thất thủ, ngày
3-6-54, tướng Ely, Tổng Tham mưu trưởng quân lực Pháp được cử sang Ðông Dương
giữ chức Cao uỷ và Chỉ huy trưởng thay thế Dejean và Navarre.
Trước thắng lợi
của Việt Minh, bộ Chỉ huy Pháp lo ngại Việt minh tấn công thẳng vào vùng đồng
bằng nên họ bàn tính kế hoạch rút quân khỏi Bắc Kỳ để chuyển vào Nam Kỳ cố thủ.
Ely ra lệnh rút hết quân ở Nam Ðịnh, Thái Bình, Ninh Bình và Bùi Chu, Phát Diệm
về giữ Hànội và giữ trục giao thông Hànội - Hải Phòng.
Hàng trăm ngàn dân cư ở các vùng Pháp rút quân, bỏ hết cửa nhà gia sản tản
cư lên Hànội, để cùng với dân cư các vùng khác, cả triệu người, di cư khổng lồ
vào miền Nam sau khi Hiệp định Genève ký kết.
*
Ðầu năm 1954, trước khi có cuộc bao vây Ðiện biên Phủ, chính phủ Laniel đã
được Quốc hội chấp thuận cho tìm cách chấm dứt chiến tranh Ðông Dương bằng một
cuộc hoà đàm.
Hội nghị Tứ cường họp ở Bá Linh để giải quyết vấn đề Thống nhất nước Ðức và
vấn đề Phòng thủ Âu châu, đã đồng ý chấp thuận lời đề nghị của đại biểu Pháp
mời tất cả các nước đã tham dự chiến tranh Triều Tiên và các phe liên hệ ở Ðông
Dương tới Genève họp bàn về Vấn đề Cao Ly và Vấn đề Chấm dứt chiến tranh ở Ðông
Dương.
Ngày họp định vào ngày 26-4-54.
Tuy nhiên, trong Chính phủ và trong Quốc hội Pháp vẫn có nhiều khuynh hướng
đối chọi nhau về vấn đề Ðông Dương.
Phe thì muốn điều đình với Hoa Kỳ để Hoa Kỳ giúp đỡ toàn thể chiến phí hoặc
Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến. Phe thì chủ trương đi với Nga để nhờ Nga đứng làm
trung gian chấm dứt chiến tranh. Có phe lại muốn điều đình thẳng với Việt Minh
để chấm dứt chiến tranh và trung lập hóa Ðông Dương. Phe khác thì muốn viện trợ
cho Trung cộng đổi lấy sự can thiệp với Việt Minh để chấm dứt chiến tranh.
Các chủ trương đối chọi nhau, không có phe nào mạnh hơn phe nào, nên
đường lối không có gì dứt khoát, mọi người chờ chiều hướng chiến tranh diễn
biến.
Khi chiến cuộc Ðiện biên Phủ đến hồi khẩn cấp, Pháp thấy khí thế Việt minh
lên cao, Laniel vội vàng cử tướng Ely, Tham mưu trưởng quân lực Pháp, sang Mỹ
cầu cứu.
Tổng Tham mưu trưởng Mỹ, Ðô đốc Radford, đề nghị gửi 60 pháo đài bay B.29
từ Manille (Phi-luật-tân) sang ném bom chung quanh Ðiện biên Phủ vào các vị trí
Việt minh, mỗi chuyến 450 tấn bom, cùng với 150 phi cơ chiến đấu của Ðệ thất
Hạm đội. Chính phủ Pháp vui mừng, yêu cầu thực hiện gấp trước khi Ðiện biên Phủ
nguy ngập, nhưng Radford đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của những nhân vật
quan trọng trong Quốc hội Mỹ nên việc gửi máy bay sang cứu Ðiện biên Phủ không
thành.
Quốc hội Mỹ phần thì ngờ vực mục đích chiến tranh của Pháp ở Ðông Dương
không muốn trực tiếp nhúng tay vào sợ mang tiếng giúp một chiến tranh thuộc
địa, phần thì lo ngại sa lầy vào một cuộc chiến tranh kiểu Triều Tiên mà Mỹ vừa
thoát khỏi. Vì vậy ngày 5-4-1954, ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles chính thức trả
lời Thủ tướng Laniel là : "Mỹ không can thiệp bằng quân sự trong
chiến cuộc Ðông Dương theo hình thức hiện tại."
Trái lại, theo một nguồn tin khác, về việc Mỹ có ý định tham chiến giúp
Pháp giải toả Ðiện biên Phủ, thì sự việc lại khác.
1) Ngày 23-3-1954, tướng Ely tới Hoa thịnh Ðốn cầu viện, được Tổng thống
Eisenhower tiếp tại toà nhà Bạch Ốc với sự hiện diện của đô đốc Arthur Radford.
Eisenhower hoàn toàn đồng ý trợ giúp cho Navarre :
" Hoa kỳ viện trợ khẩn cấp những nhu cầu của tướng Navarre, đặc biệt
tất cả những yêu cầu nào có thể giúp chiến thắng trận Ðiện biên Phủ".
Eisenhower giao cho đô đốc Radford toàn quyền quyết định. Radford đề nghị
với Ely một chương trình trợ giúp đặt tên là "Chương trình
Vautour " :
- 60 pháo đài bay B.29 căn cứ tại Phi luật tân, có 150 phi cơ chiến đấu bảo
vệ, mỗi phi vụ sẽ đổ xuống 450 tấn bom chung quanh Ðiện biên Phủ và các căn cứ
tiếp viện của Việt minh.
Tướng Ely và chính phủ Pháp từ chối không nhận đề nghị này (Theo sách
"La république des contradictions" éditions Fayard).
2 ) Theo sách " D'une résistance à
l'autre " (Presses du siècle), Thủ tướng Pháp Bidault kể rằng :
Giữa tháng tư 1954, ngoại trưởng Hoa
Kỳ tới Pháp. Tôi (Bidault) tỏ ý lo ngại về tình trạng chiến sự ở Ðiện biên Phủ.
Tôi nói với Foster Dulles rằng : Hoa
kỳ đã tuyên bố công khai rằng Hoa Kỳ không chấp nhận một sự bành trướng của
cộng sản trong vùng, thì đây là một cơ hội cho Hoa Kỳ hành động hợp với chính
sách của Hoa Kỳ để chận đứng sự bành trướng của cộng sản. Hạm đội của Hoa Kỳ
hiện đang ở vịnh Bắc Kỳ (Golfe du Tonkin). Nếu Hoa Kỳ ném bom chung quanh lòng
chảo Ðiện biên Phủ thì có thể giúp cho quân Pháp trú đóng tại đó thoát khỏi áp
lực của Việt minh.
Foster Dulles không công khai trả lời
thẳng đề nghị của tôi, nhưng ông ta đã nói riêng với tôi rằng :
- Nếu Hoa Kỳ tặng Pháp hai trái bom
nguyên tử, thì Thủ tưóng nghĩ sao ?
Không cần suy nghĩ lâu, tôi trả lời
ngay :
- Thả bom nguyên tử vào khu Ðiện biên
Phủ thì cả quân đội Pháp đồn trú trong đó cũng như quân Việt minh bao vây chung
quanh đều bị thiệt hại. Nếu dùng bom đó để ném vào những đường giao thông tiếp
tế từ Trung cộng sang thì có thể gây ra một cuộc chiến toàn diện. Trong cả hai
trường hợp, quân trú phòng ở Ðiện biên Phủ sẽ không được hưởng chút gì.
Tôi từ chối lời đề nghị đó.
Hội nghị Genève
Nội các Laniel đổ, Mendès France được
chọn làm Thủ tướng. Ngày 16-6-54, trước Quốc hội, Mendès France cam kết giải
quyết vấn đề chấm dứt chiến tranh Ðông Dương trong thời hạn một tháng, nếu tới
ngày 20 tháng 7-54 không xong thì sẽ xin từ chức.
Chính phủ Pháp bấy giờ đã hết tin tưởng
vào sự giúp đỡ của Mỹ, nhưng hai ngày trước ngày họp hội nghị Genève ngoại
trưởng Pháp Bidault còn cố điều đình với Foster Dulles để Mỹ can thiệp hòng vớt
vát được danh dự cho Pháp, nhưng Dulles từ chối.
Như vậy, khi tới Genève phó hội, các nhà
ngoại giao Pháp đã ở trong tư thế bất lợi về mặt quân sự và còn bị ràng buộc
với lời cam kết của Mendès France, nên việc Pháp chấp nhận những điều kiện của
đối phương Việt minh đưa ra là một việc gần như bó buộc.
Ngày 8-5-54, phiên họp đầu tiên về chiến
tranh Ðông Dương khai mạc.
Có 9 phái đoàn tham dự là : Phái đoàn
Anh do Eden cầm đầu, phái đoàn Mỹ do Foster Dulles, phái đoàn Pháp do Bidault,
phái đoàn Trung cộng do Chu Ân Lai, phái đoàn Nga sô do Molotov, phái đoàn Việt
minh do Phạm văn Ðồng, phái đoàn Việt Nam Quốc gia do Nguyễn quốc Ðịnh và hai
phái đoàn Lào, Cao miên.
Trước
giờ khai mạc hội nghị, tin Ðiện biên Phủ thất thủ ngày 7-5-54, đã được loan
truyền đi, nên trong bài diễn văn khai mạc, đại biểu Pháp đã đặt trọng vấn đề
ngưng chiến trước vấn đề chính trị.
Bidault
tách rời vấn đề Việt Nam ra khỏi vấn đề Lào và Cao miên. Bidault cho rằng tại
Việt nam có cuộc nội chiến, còn tại Lào và Cao mên thì là một cuộc ngoại xâm.
Phạm văn Ðồng đưa ra một đề nghị 8 điểm
để chấm dứt xung đột và muốn giải quyết chung cho cả ba nước chứ không giải
quyết riêng rẽ.
Sau cuộc họp khoáng đại, phái đoàn Pháp
gặp riêng rẽ những phái đoàn Trung cộng, Nga sô và Việt minh để mặc cả.
Ngày 13-5-54, Việt minh chấp thuận cho
Pháp di tản các thương binh ở Ðiện biên Phủ về Hà nội điều trị.
Ðể tỏ cho Nga, Trung cộng và Việt minh
biết ý chí muốn giải quyết vấn đề trong một tháng, Mendès France ra lệnh cho
đại biểu Pháp ở hội nghị Genève chỉ ký giao kèo thuê căn biệt thự Joli Port
trên bờ hồ Léman trong một tháng cho Phái đoàn Pháp ở.
Ngay từ đầu, Pháp đã đưa ra đề nghị chia
đôi Việt nam, thay vì giữ nguyên vẹn lãnh thổ và lập một chính phủ Liên hiệp.
Việt minh chấp nhận ngay ý kiến chia cắt và đưa ra những đề nghị về làn phân
ranh.
Hai bên mặc cả với nhau, Pháp thì đề
nghị ở vĩ tuyến 18, Việt minh thì đòi cắt ở vĩ tuyến 13. Ngày 9-7-54, Việt minh
đề nghị hạ xuống vĩ tuyến 14, Pháp vẫn giữ vững vĩ tuyến 18. Ngày 13-7, Việt
minh lại hạ xuống vĩ tuyến 16 và đến ngày 19-7 thì hai bên thoả thuận chia cắt
ở độ vĩ tuyến 17, phù hợp với ý kiến của Anh và Mỹ.
Ðứng
trước những cuộc mặc cả âm thầm nguy hại cho Quốc gia Việt Nam, ngoại trưởng
Trần văn Ðỗ, đại diện Việt nam, chủ tịch phái đoàn (thay thế ông Nguyễn quốc
Ðịnh), ngày 19-7-54 đã chuyển đến 8 đại biểu của các nước họp hội nghị những
lời đề nghị và phản kháng như sau :
(...) Những dự tính của Nga và Việt minh
chấp thuận một cuộc chia cắt Việt nam thành hai vùng, vùng bắc nhượng choViệt
minh, mặc dầu trên nguyên tắc chỉ có tính cách tạm thời nhưng nó cũng sẽ gây ra
ảnh hưởng tương tự như ở Ðức, Áo và Cao Ly. Việc chia cắt đó không mang lại hoà
bình tìm kiếm bởi vì nó làm tổn thương đến tinh thần quốc gia của dân tộc và sẽ
gây nên những sự náo loạn trên khắp lãnh thổ có thể đe dọa nền hoà bình đã đạt
được một cách đắt giá.
Trước khi bàn đến thể thức chia cắt
mà hậu quả sẽ tai hại cho dân tộc Việt Nam và cho hoà bình thế giới, phái đoàn
Việt nam đề nghị một cuộc ngưng bắn không phân ranh và không chia cắt. Ðề nghị
của phái đoàn là :
1) Giữ nguyên vị trí hiện tại.
2) Tập hợp quân lính trong
những vùng càng nhỏ càng tốt.
3) Giải giới những binh lính
không chính quy.
4) Sau một thời gian sẽ được
quyết định sau, giải giới quân độiViệt minh và triệt thoái dần quân đội ngoại
quốc.
5) Liên hiệp quốc kiểm soát :
a) việc ngưng bắn.
b) việc tập hợp quân lính.
c) việc giải giới và triệt
thoái quân đội ngoại quốc
e) tổng tuyển cử sê được tổ
chức khi nào LHQ nhận thấy trật tự và uy quyền đã được hoàn toàn tái lập.
(...) Phái đoàn Việt nam quốc
gia đề nghị một buổi họp nghiên cứu về đề nghị ngưng bắn không chia cắt lãnh
thổ. Hoà hợp đề nghị của mình với đề nghị của những nước khác, phái
đoàn Quốc gia Việt Nam mong góp phần hữu hiệu vào việc tìm kiếm một nền hoà
bình thật sự và trường cửu hợp với nguyện vọng của dân tộc Việt Nam ."
Trưa ngày 20-7-54, thấy tình hình khẩn
cấp ngoại trưởng Trần văn Ðỗ lại gửi tới 8 phái đoàn một Bản Tuyên ngôn theo đó
Quốc gia Việt nam không chấp thuận một làn ranh giới làm mất phần phía bắc lãnh
thổ. Tuyên ngôn này còn yêu cầu có những biện pháp bảo vệ dân chúng không cộng
sản và đòi quyền nhập cảng khí giới để bảo vệ lãnh thổ.
Tuyên ngôn như sau (trích) :
" (...) Trong trường hợp ngưng
bắn mà không chia cắt lãnh thổ không được chấp thuận, và với mục đích không làm
chậm trễ cuộc tìm kiếm một giải pháp khác cho hoà bình, phái đoàn Việt Nam long
trọng lưu ý các phái đoàn khác về những điểm sau đây :
Thoả hiệp ngưng bắn được coi như một
văn kiện hoàn toàn quân sự do vị Chỉ huy trưởng hoặc đại diện hai bên ký kết,
chỉ liên quan tới bộ Chỉ huy tối cao Pháp và Việt minh. Thoả hiệp đó dẫn đến
những hậu quả có hại cho tương lai Việt Nam. Những hậu quả đó là việc rời bỏ
đất đai, dân cư và các công sở. Quyền hạn mà Quốc trưởng Việt Nam đã ủy cho vị
Chỉ huy trưởng Pháp khi trước không có nghĩa là Việt Nam phải chịu những hậu
quả trầm trọng như vậy.
1) Về vấn đề làn phân ranh phái đoàn
Việt Nam tiếc không thể đồng ý giải pháp chia cắt, tức là bỏ choViệt minh tất
cả miền BắcViệt nam là một phần đất có đông dân cư. Việc nhượng bỏ đó có hậu
quả là không còn khả năng chống lại sự bành trướng của cộng sản trên phương
diện quân sự và chính trị. Nước Việt Nam không thể bỏ rơi những người công giáo
đã tỏ ý chí chống lại chế độ cộng sản."
2) Vì vậy Phái đoàn Việt nam (quốc
gia) yêu cầu phải hết sức tìm những biện pháp hữu hiệu để che chở dân chúng
không bị đặt dưới một chế độ nô lệ chính trị và tinh thần, và tìm những phương
tiện để di chuyển những đám dân chúng đó đến vùng không cộng sản nếu họ có lời
yêu cầu.
3) Về quyền tổ chức sự tự vệ Việt
nam, sự cấm đoán nhập cảng khí giới vào Việt nam sau đình chiến chỉ làm lợi cho
Việt minh vì không thể nào kiểm soát được họ nhập khí giới qua vùng biên giới
rộng lớn Hoa Việt. Trái lại việc cấm đoán đó sẽ làm nguy hại cho Việt nam chỉ
trông mong vào đoàn quân viễn chinh Pháp mà chính phủ Pháp lại tuyên bố sẵn
sàng triệt thoái sớm.
Vì những lẽ trên, nước Việt nam không
thể nào chấp nhận được việc chia cắt một phần quan trọng lãnh thổ và dân cư của
mình mà lại còn mất quyền tổ chức việc quốc phòng phù hợp với một nước độc lập
và có chủ quyền."
Lời phản kháng và đề nghị của đại diện
Quốc gia Việt Nam không được Hội nghị bàn cãi tới và đến tối ngày hôm 20 rạng
ngày 21-7-54, vào hồi 1 giờ sáng, thì một Thoả hiệp ngưng bắn được ký kết giữa
đại tá Tạ quang Bửu thay mặt Võ nguyên Giáp và tướng Deltheil thay mặt tướng
Ely, Cao ủy Pháp tại Ðông Dương.
Lễ ký kết diễn ra trong 7 phút đồng hồ
tại một gian phòng nhỏ cạnh phòng Hội đồng, chung quanh một cái bàn kính hình
bầu dục trên bàn có đặt một quả địa cầu tiêu biểu cho Liên hiệp Quốc.
Hiện diện có đại sứ Jean Chauvel đại
diện nước Pháp, đại tá Gilbert Monkton đại diện nước Anh, trung tá John Devan
đại diện Hoa Kỳ, 20 nhà nhiếp ảnh và quay phim, 30 ký giả. Ðại diện Quốc gia
Việt Nam không tham dự.
Ðại diện Pháp, tướng Deltheil ký trước,
tiếp theo là đại diện Việt minh Tạ quang Bửu. Không có một bài diễn văn nào
được đọc trước hay sau buổi lễ, không một cái bắt tay nào giữa Deltheil và Tạ
quang Bửu.
Thoả hiệp ngưng bắn
Thỏa hiệp ngưng bắn gồm 6 chương, tóm
tắt như sau:
Chương 1. Ðường
phân ranh.
Ðường phân ranh được ấn định theo sông
Bến Hải, cách phía bắc quốc lộ số 9 chừng 20 cây số, nằm trên vĩ tuyến 17. Lực
lượng của hai phe đối chiến đã tập trung ở hai bên đường phân ranh này.
Có một khu vực tập hợp tại miền Bắc và
nhiều khu vực ở miền Nam (3 hoặc 4 khu vực chính). Các quân lực tập hợp trong
các khu vực đó sẽ được triệt thoái dần trong thời hạn tối đa là 30 ngày. Sau đó
cả hai miền sẽ được đồng nhất.
Chương hai.
Chương hai liên hệ đến các thể thức
ngưng bắn và vấn đề chuyển giao quyền hành chính dân sự.
Khoản 2 nói rõ rằng sẽ không có một cuộc
trả thù nào đối với nhửng người hay những tổ chức có hoạt động đối lập trong
thời kỳ chiến đấu. Trong khoảng thời gian từ lúc thực thi thỏa hiệp đến lúc
quân đội triệt thoái hết, mọi người đều được phép rời bỏ khu vực này sang khu
vực khác. Cả hai phe sẽ không chấp nhận một sự phá hoại hay xâm phạm đến tính
mạng của bất cứ cá nhân nào.
Chương 3. Chương 3 đề
cập đến việc cấm đem thêm quân đội, chiến cụ vào, cấm không được thành lập các
căn cứ quân sự mới, cấm nhượng các căn cứ cho ngoại quốc kể từ khi thi hành
thoả hiệp.
Chương 4. Chương 4
liên quan tới các tù binh và thường dân bị giam giữ, thời hạn phóng thích.
Chương 5. Chương 5
liên quan đến những thể thức riêng.
Chương 6 .
Chương 6 nhằm vào việc kiểm soát và các điều khoản liên quan đến các Uỷ ban
kiểm soát quốc tế và hỗn hợp.
Cuộc ngưng bắn sẽ thi hành bắt đầu từ
ngày 27-7-54 cho Bắc Việt, từ ngày 1-8-54 cho Trung Việt, từ ngày 7-8-54 cho
Nam Việt, từ ngày 6-8 và 7-8-54 cho Ai Lao và Cao Miên.
Ngày hôm sau, 21-7-54, trong buổi họp
khoáng đại bế mạc Hội nghị Genève, một bản Tuyên ngôn chung của các phái đoàn
được tuyên bố. Bản Tuyên ngôn này không mang chữ ký của một phái đoàn nào nhưng
được sự thoả thuận của các phái đoàn Anh, Pháp, Nga, Trung cộng, Ai Lao, Cao
Miên và Việt minh.
Phái đoàn Quốc gia Việt Nam và phái đoàn
Hoa Kỳ không chấp thuận, vì vậy mà người ta nói là Việt Nam và Mỹ không ký thoả
hiệp Genève, thực sự thì không có thoả hiệp viết trên giấy tờ và cũng không có
chữ ký nào của các phái đoàn phó hội.
Ngoại trưởng Trần văn Ðỗ một lần nữa lại
phản đối việc Hội nghị không lưu ý những đề nghị của Quốc gia Việt Nam, là :
- Ngưng bắn mà không chia cắt lãnh thổ
Việt Nam.
- Phi-quân-sự hoá và trung-lập-hoá các
giáo sứ ở vùng đồng bằng Bắc Việt.
- Phản đối việc ký kết hấp tấp Thoả hiệp
ngưng bắn với những điều kiện đe doạ tương lai của Việt Nam. Ðại biểu Quốc gia
Việt Nam trách vị Chỉ huy trưởng Pháp ở Ðông Dương, tướng Ely, đã lạm quyền mà
Quốc Trưởng Việt nam trao cho để chỉ huy Quân lực Việt Nam, Ely đã ký kết với
Việt minh những điều thất lợi cho Quốc giaViệt Nam mà không có sự thoả thuận
trước của chính phủ Việt Nam.
Ðại biểu Mỹ, tướng Bedell Smith tuyên bố
Mỹ ghi nhận sự thông tri các Hiệp ước ngưng bắn và bản Tuyên ngôn chung, nhưng
Mỹ không bị ràng buộc bởi những văn kiện đó. Mỹ sẽ không dùng sự đe doạ để đòi
thay đổi những điều khoản trong các văn kiện đó. Chính phủ Mỹ cho rằng những sự
vi phạm các thoả hiệp đó là một điều trầm trọng có tính cách đe dọa thực sự nền
hoà bình và an ninh thế giới. Ðối với thái độ của chính phủ Quốc gia Việt nam
Mỹ xác nhận tôn trọng quyền tự quyết của mọi dân tộc, quyền từ chối tham dự mọi
hiệp ước trái với quyền định đoạt tương lai của họ.
*
____________________________________________________
CHÚ THÍCH BÀi SỐ 8
[1] OTAN (Organisation du Traité de l’Atlantique Nord)
hay là NATO (North Atlantic Treaty Organization) : Cơ quan Hiệp ước Bắc Ðại tây
Dương
[2] Vì chính phủ Pháp mới đặt trên đầu Navarre một Cao
ủy dân sự là Dejean có quyền quyết định cả về dân sự lẫn quân sự.
[3] chú thích : Ðiện biên Phủ đã bị Việt minh chiếm ngày
30-11-52.
[4] Na San cũng đã bị triệt thoái từ tháng 8
*
____________________________________________________
[1] OTAN (Organisation
du Traité de l’Atlantique Nord) hay là NATO (North Atlantic Treaty
Organization) : Cơ quan Hiệp ước Bắc Ðại tây Dương
[2] Vì chính
phủ Pháp mới đặt trên đầu Navarre một Cao ủy dân sự là Dejean có quyền quyết
định cả về dân sự lẫn quân sự.
[3] chú thích :
Ðiện biên Phủ đã bị Việt minh chiếm ngày 30-11-52.
[4] Na San cũng đã
bị triệt thoái từ tháng 8
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét